Tổ quốc ăn năn

Cuốn sách này đã tự giới hạn ở mức độ thảo luận ý kiến. Tuy vậy trong khi trình bày và phân tích các vấn đề, tác giả cũng đã gợi ý một số giải pháp.

Chúng ta có rất nhiều điều phải làm, nên làm, có thể làm và nếu làm được sẽ mở ra cho đất nước những vận hội rất lớn. Mặt khác chúng ta cũng có những điều nên thôi làm ngay lập tức, và nếu chấm dứt được thì cũng đã là cả một phúc lớn cho mọi người. Nhưng mọi ý kiến sẽ chỉ là những ý kiến để thảo luận, và mọi đề nghị cũng sẽ chỉ là những đề nghị để đó, chừng nào chúng ta chưa thay thế được chế độ độc tài này bằng một chế độ dân chủ. Và muốn thay đổi được chế độ cực kỳ ngoan cố này chúng ta cần một điều mà chúng ta chưa có và cũng chưa có dấu hiệu nào là sẽ có trong một tương lai nhìn thấy được: đó là một sức bật mới của lòng yêu nước.

Tinh thần quốc gia dân tộc của chúng ta hiện nay đã xuống rất thấp.

Hiện tình của chúng ta là một đảng cầm quyền đã cai trị đất nước một cách thô bạo trong một nửa thế kỷ, đã thất bại trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt, đã gây vô số tội ác mà không hề gặp một chống đối qui mô nào. Phải nhìn nhận rằng trên thế giới này khó tìm ra một dân tộc bạc nhược như vậy. Mà có phải con người Việt nam bạc nhược đâu. Cũng những con người ấy khi được tổ chức và chỉ huy đã đánh bại quân Tống, quân Nguyễn, quân Thanh, đã từng chiến thắng vẻ vang tại Điện Biên Phủ, đã từng tàn sát lẫn nhau một cách rất dũng cảm tại Bình Long, Quảng Trị. Khả năng chiến đấu của người Việt nam không ai chối cãi. Cũng những con người ấy đã dám chất nhau trên những chiếc thuyền ọp ẹp vượt biển cả tìm cuộc sóng mới. Chúng ta không chống lại không phải vì chúng ta thiếu can đảm mà vì chúng ta đã rã hàng. Sự rã hàng đó cho người Việt nam một cảm giác bất lực và làm tê liệt mọi ý chí tranh đấu. Dầu vậy, họ không cố gắng để tái lập lại hàng ngũ vì họ đã mất niềm tin và hy vọng.

Bạn tôi, một trí thức dân chủ có uy tín ở trong nước từng làm thế giới xúc động khi anh bị bắt giam, nói với tôi là các con anh tốt nghiệp đại học một cách rất xuất sắc nhưng hoàn toàn không biết gì về tình hình Việt nam, chúng không cần biết tên ông tổng bí thư đảng cộng sản, cũng chẳng cần biết ai đang làm thủ tướng, bộ trưởng, v.v… Chúng sống tại Việt nam, nhưng sống ngoài lề mọi biến chuyền. Tôi có khá nhiều bạn trong và ngoài nước cùng theo đuổi lý tưởng dân chủ. Con cái họ nói chung cũng đều như thế cả. Tình trạng của họ nói chung là bi đát. Họ chỉ là một thiểu số rất nhỏ, cô đơn ngay trong gia đình. Một giải thích thường được đưa ra là người Việt nam đã quá chán chế độ cộng sản và không muốn nghĩ đến nữa. Nhưng giải thích này không ổn vì người Việt nam cũng không cần biết những ai đang đấu tranh cho dân chủ. Họ không cần biết gì hết. Thực ra họ chán ngán tất cả những gì liên quan đến chuyện nước non.

Dĩ nhiên đối với dân tộc nào thì dấn thân chính trị cũng chỉ là sự kiện của một thiểu số. Nhưng khi thiểu số đó không tới một phần trăm thay vì ở mức năm, mười phần trăm thì phải nói là không còn tinh thần dân tộc. Số người Việt ở hải ngoại trên hai triệu người với gần nửa triệu người có trình độ đại học và một tổng số thu nhập cao hơn tổng sản lượng trong nước. Chỉ cần 10% của khối người này mà biết tranh đấu thông minh để động viên những ước vọng dân chủ trong nước cũng đủ để đánh bại đảng cộng sản. Nhưng thực tế nếu cộng hết những phần tử thực sự dấn thân trong mọi đoàn thề đấu tranh cho dân chủ và nhân quần chúng ta cùng chưa có được hai ngàn, nghĩa là một phần ngàn. Trong khi đó thì những Thanh Hải Vô Thượng Sư, Lương Si Hằng, Lương Minh Đáng, có thể có hàng chục ngàn, hay hàng trăm ngàn đệ tử. Người Việt có thể hưởng ứng nồng nhiệt những tổ chức nhảm nhí nhưng chỉ dành cho quê hương đất nước một quan tâm nhỏ.

Hàng năm có hàng trăm ngàn người Việt từ nước ngoài về thăm quê hương. Từ 1975 đến nay đã có nhiều triệu chuyến đi về. Chỉ cần một phần trăm những người đi về vừa thăm nhà vừa vận động dân chủ thôi, dù là trong khuôn khổ của một tổ chức hay chỉ ở mức đõ cá nhân, tình hình Việt nam cũng đã khác. Nhưng tất cả đã về nước mà không mang theo một thông điệp tự do, dân chủ hay nhân quyền nào.

Nếu chỉ cần 10% của cộng đồng người Việt hải ngoại cũng đủ để đánh bại đảng cộng sản thì một tỷ lệ nhỏ hơn của những người trong nước cũng đủ để buộc đảng cộng sản phải nhượng bộ. Trong lình trạng hiện nay của nó, chế độ cộng sản không dám bắn vào đám biểu tình mà cũng không dám bắt giam hàng loạt. Nhưng một người quen tôi nói rằng khi đề cập tới chuyện đất nước thì người trong nước không muốn nghe. Và anh ta có lý. Tôi đã từng nhờ một số thanh niên, vừa tốt nghiệp đại học và may mắn tìm được một chỗ thực tập khá dài hạn tại Việt nam quan sát, làm quen và tìm hiểu tuổi trẻ trong nước. Tất cả cho lôi một câu trả lời giống nhau: họ không gặp ai quan tâm tới chính trị cả, tuổi trẻ trong nước chỉ có một mục đích là kiếm tiền và ăn chơi. Không phải vì lý do an ninh, Việt nam đã thay đổi khá nhiều so với mười năm về trước; việc bàn chuyện chính trị, ngay cả đã kích đích danh và thậm tệ những lãnh tụ cộng sản cũng không còn là một nguy hiểm nữa, chính quyền chỉ đàn áp những tiếng nói có uy tín và nhưng dự định kết hợp thành tổ chức thôi. Người Việt không muốn nói và không muốn nghe chuyện đất nước chỉ vì không muốn chứ không phải vì không dám.

Cũng không phải vì không có vấn đề. Ai cũng có vấn đề cả. Người ta thù ghét sự tham nhũng và những đặc quyền đặc lợi. Người ta chán ngấy những báo và đài của đảng quanh năm nói lấy được, những ông lãnh đạo đảng và nhà nước lúc nào cũng huênh hoang là được sự hưởng ứng nồng nhiệt của toàn dân. Người ta tức đến lộn ruột khi nhìn những phần tử quyền theo mánh mung phô trương sự giàu có. Người ta chịu đựng hàng ngày, hàng giờ sự bực bội của quan liêu bàn giấy, trộm cướp, mãi dâm, bụi bặm, hôi thói, kẹt xe. Người ta còn có thể căm thù vì chính sách phân biệt đối xử đối với mình hay đối với con cái mình tại trường học, sở làm. Người ta khổ vì nghèo túng. Và trong thâm tâm người ta đều biết tất cả là hậu quả của chế độ và chỉ có thể chấm dứt cùng với chế độ. Nhưng người ta không phản ứng bởi vì trong vô thức người ta đã lấy quyết định gạt bỏ đất nước ra khỏi đời mình. Dân chủ, tự do cho không thì lấy chứ nhổ một sợi lông chân cho đất nước cũng không làm. Mỗi người chỉ lo giải quyết những vấn đề cá nhân của mình bằng những giải pháp cá nhân. Chúng ta không còn suy nghĩ chung, phản xạ tập thể và tinh thần quốc gia dân tộc. Đa số người Việt đã quay lưng lại với đất nước. Vấn đề cấp bách hiện nay là hòa giải người Việt nam với đất nước Việt nam.

Cuối năm 1982, vài ngày trước khi xuất ngoại đi Pháp, tôi rủ một người bạn đi uống cà phê. Buổi chia tay nào cũng buồn. Chúng tôi nói chuyện trời đất loanh quanh chỉ để ngồi với nhau. Rồi có một lúc không hiểu vì lý do gì tôi nói đến hai tiếng yêu nước. Bạn tôi, một nhà tư tưởng lớn, nói một cách vừa mỉa mai vừa chua xót:

– Hai tiếng yêu nước bây giờ đã trở thành tục tĩu!

Sau câu nói đó cả hai chúng tôi đều im lặng, mỗi người theo một mạch suy nghĩ.

Bạn tôi nói đúng. Vào thời điểm đó, và ngay cả sau đó, hai tiếng “yêu nước” thật là thô bỉ. Mỗi lần chúng xuất hiện ở đâu, chúng đều có tác dụng nhảm nhí hóa, nhiều khi làm ngược hẳn ý nghĩa của khái niệm mà chúng đi kèm. “Trí Thức Yêu Nước” là hội của những người có học thức nhưng đã chấp nhận từ bỏ tư duy của chính mình để nói vuốt đuôi theo lập trường của đảng, nghĩa là những người không còn là trí thức. “Công Giáo Yêu Nước”, “Phật Giáo Yêu Nước”, là tổ chức của những người ủng hộ chính sách đàn áp và bôi nhọ tôn giáo, nói cách khác là những người đã phản bội tôn giáo của mình. Hai tiếng “yêu nước” sau cùng đã nhảm nhí đến độ chính đảng cộng sản cũng không còn đủ trơ trẽn để dùng nữa.

Phải khách quan mà nhìn nhận rằng đảng cộng sản đã hủy diệt lòng yêu nước một cách rất có hệ thống. Họ nổi lên lúc đầu như một phong trào vô tổ quốc, lấy giai cấp vô sản trên toàn thế giới làm đối tượng phục vụ, kêu gọi hận thù giai cấp và tiêu diệt lẫn nhau giữa người Việt. Sau đó, tình cờ (?) trùng hợp với lúc Stalin đưa ra chủ thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội trong từng quốc gia họ mới quay lại sử dụng chiêu bài dân tộc, nhưng lại nhân danh tổ quốc để tàn sát những người không chấp nhận chủ nghĩa của họ. Tổ quốc trở thành đao phủ. Những người địa chủ và tư sản không những bị ruồng bỏ mà còn bị coi là thù địch và bị tàn sát. rồi cũng nhân danh tổ quốc họ phát động cuộc chiến thôn tính miền Nam làm hàng triệu người chết và đất nước kiệt quệ. Tổ quốc đồng nghĩa với chiến tranh và chết chóc.

Toàn thắng rồi, tổ quốc xã hội chủ nghĩa quên phắt cam kết thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tổ quốc bỏ tù và hạ nhục hàng triệu người. Tổ quốc đánh tư sản, tống cổ con cái “ngụy quân, ngụy quyền” ra khỏi trường học và lùa đi vùng kinh tế mới. Tổ quốc khống chế và hăm dọa bằng công an thành, công an tỉnh, công an huyện, công an phường. Biết dân chúng không còn chịu đựng được nữa và muốn bỏ nước ra đi, tổ quốc đứng ra tổ chức vượt biên bán chính thức để lấy tiền chuộc mạng của những người muốn chạy trốn nanh vuốt của mình. Tổ quốc hành động như bọn giặc cướp. Đến khi bị dư luận thế giới lên án dữ dội vì hành động bỉ ổi này, tổ quốc dẹp luôn đợt vượt biên bán chính thức và dĩ nhiên không trả lại tiền. Tổ quốc đểu cáng và lật lọng.

Đối với những người ra đi, tổ quốc là sóng gió, hải tặc, là cái chết trong bụng cá, may mắn hơn là những ngày ê chề trong những trại tập trung trước khi tìm được một quê hương mới. Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi. Đối với những người ở lại, tổ quốc đổi tiền mấy lần để cướp giật, tổ quốc sách nhiễu từng ngày. Tổ quốc nói trắng cũng được, nói đen cũng xong, cấm rồi lại cho phép, cho phép rồi lại cấm, muốn bắt hay tha tùy ý, người dân phải chịu đựng hết. Vì tổ quốc có súng.

Tổ quốc của phe “quốc gia” chắc chắn không hiểm độc bằng tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng không kém phần nhảm nhí. Từ ngày thành lập năm 1948 (trên một chiến hạm Pháp), chế độ quốc gia chưa bao giờ coi lòng yêu nước có một giá trị gì. Chính quyền luôn luôn nằm trong tay những người hoặc không có một ý thức nào về quốc gia dân tộc, hoặc đã từng làm việc cho chính quyền thuộc địa Pháp, thường thường là cả hai. Lòng yêu nước và ý thức dân tộc hoàn toàn vắng mặt trong những tiêu chuẩn được dùng để chọn lựa nhân sự, ngay cả ở những cấp cao nhất. Không những không được trọng nể, những người yêu nước còn bị ngờ vực và chèn ép. Mẫu người tốt của các chính quyền quốc gia là mẫu người không thắc mắc và quan tâm gì đến chính trị. Chính nghĩa quốc gia chỉ đơn thuần là chống cộng. Quân đội được tổ chức như một quân đội chuyên nghiệp, nhưng lại không chuyên nghiệp đúng nghĩa bởi vì phần lớn các tướng lĩnh chỉ là những trung úy, đại úy trong quân đội Pháp và lên lon do bè cánh chứ không phải vì khả năng. Chiến tranh tâm lý chủ yếu là tổ chức những buổi văn nghệ giải trí cho quân đội.

Trong bài diễn văn cuối cùng để từ chức của ông, sau tám năm cầm quyền trong đó ông đã làm nản lòng mọi người và cuối cùng thất bại thê thảm trước cuộc tổng tấn công của quân cộng sản, ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qui trách Mỹ bằng một lập luận độc đáo: “Trước đây người Mỹ bỏ ra trên 20 tỷ đô la môi năm, nay họ chỉ cấp cho tôi chưa đầy một tỷ thì tôi chỉ đánh được hai tuần“. Trong thâm tâm chắc chắn ông đang nghĩ ông đánh giặc cho người Mỹ.

Công bằng mà nói, do chính sự lỏng lẻo và xô bồ của nó, chế độ miền Nam cũng đã cho phép một số người có khả năng và thiện chí lên đến được những cấp bậc khá cao (cũng như họ đã để cho cán bộ cộng sản lọt vào chức cố vấn tổng thống hoặc lên đến cấp tướng), nhưng con số những người này quá ít ỏi và cũng chưa ai trong bọn họ có được vai trò quyết định. Tổ quốc của phe quốc gia vẫn chỉ là những ông bà lớn bảnh bao thỏa mãn, là những giấy phép nhập cảng, là những trương mục ngân hàng. Đó cũng là những đợt bắt quân dịch, nhưng thương phế binh đi ăn xin ngoài đường nếu thấp cổ bé miệng, hay đi cắm dùi chiếm đất nếu láo bạo hơn và có băng đảng. Là những người mẹ, người vợ xanh xao thiếu đói chầu chực để lãnh tiền tử tuất của chồng con.

Tôi đã có mặt tại Việt nam trong hai năm cuối của cuộc chiến. Trước khi về nước tôi đã biết là tương lai miền Nam rất hiểm nghèo, mười phần thua chỉ có một phần thắng; nhưng chỉ vài ngày sau đó tôi hiểu ngay là chế độ Việt nam Cộng Hòa chắc chắn sẽ sụp đổ. “Chính nghĩa quốc gia” đã mất hết nội dung. Đa số quần chúng vẫn ghét và sợ cộng sản, nhưng không còn ai nghĩ đến đất nước.

Các anh em họ của tôi ở Hố Nai đều là lính kiểng lính ma. Họ vui mừng vì gia đình đã chạy được tiền mua một chỗ lính văn phòng xa trận mạc. Một người em họ tôi là hạ sĩ quan không quân, hắn khoe rằng vào không quân như hắn là trước ngực đeo một chữ thọ, sau lưng đeo một chữ nhàn. Hố Nai là vùng của người di cư từ miền Bắc vào đó là những người chống cộng kịch liệt nhất và gan dạ nhất. Các bà mẹ chạy tiền mua chỗ lính kiểng cho con cũng chính là những bà vợ trước năm 1955 đã cùng với chồng lăn xả vào cận chiến với quân cộng sản để bảo vệ các làng tề công giáo.

Một bạn học cũ của tôi là thiếu lá tiểu đoàn phó Dù. Câu đầu tiên han hỏi tôi là: “Sao mày ngu thế, thua đến nơi rồi còn đâm đầu về làm gì nữa?”. Tuy vậy hắn và đơn vị của hắn vẫn chiến đấu dũng cảm cho tới giờ phút chót. Hắn chiến đấu không phải vì lòng tin mà vì danh dự cá nhân. Nhiều người khác đã đặt cho tôi câu hỏi tương tự và khi tôi trả lời là đã biết trước miền Nam rất có thể sẽ thua nhưng vẫn về thì họ rất ngạc nhiên. Họ không thể tưởng tượng được là có thể có một người vì đất nước mà liều lĩnh đến thế. Nếu được đề nghị đi làm tùy viên quân sự ở nước ngoài thì chắc chắn không tướng tá nào từ chối. ý chí chiến đấu của miền Nam vào lúc đó đã hoàn toàn sụp đổ.

Tổ quốc của phe cộng sản là một tổ quốc gian ác, trong khi tổ quốc của các chính quyền quốc gia là một tổ quốc tầm phào. Mặc dầu vậy, hai cái tổ quốc đó đã làm chết gần bốn triệu người trong một cuộc chiến kéo dài gần ba mươi năm. Trong số những người nằm xuống ở cả hai bên đã có những con người thực sự dũng cảm và thực sự yêu nước, nhiều người đã bị kết tội phản quốc và bị hạ sát.

Một số độc giả đọc tới đây có thể giận dữ vì tác giả đã ăn nói một cách hàm hồ. Quí vị có thể cho là tôi đã xúc phạm khi lẫn lộn các nhà nước, hay các chính quyền, với tổ quốc. Các chính quyền chỉ là những tập đoàn nhất thời, có thể tàn ác và thô bỉ, nhưng tổ quốc là vĩnh cửu, cao cả, thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

Nhưng thưa quí vị, ở bất cứ lúc nào chính quyền tuy không phải là tổ quốc cũng là người đại diện chính thức của tổ quốc. Người dân có thể cảm nhận về tổ quốc thế nào tuỳ ý, nhưng họ chỉ tiếp xúc thực sự với tổ quốc qua các chính quyền. Nếu trong một thời gian rất dài mà tổ quốc chỉ có những người đại diện gian ác và thô bỉ thì phải nói rằng chính tổ quốc có vấn đề. Sự chán nản kéo dài quá lâu với các chính quyền chắc chắn sẽ biến thành sự chán nản đối với chính đất nước. Nếu phần nỗi của lý trí không cho phép ta nhìn nhận sự thực đó, thì tiềm thức và trái tim của chúng ta cũng đã nghĩ như vậy và đôi chân của chúng ta đã làm như vậy, hoặc muốn làm như vậy Không phải ai bỏ nước ra đi từ 1975 cũng là ra đi để chuẩn bị cho ngày trở lại, trái lại đại đa số đã ra đi để vĩnh viễn tìm cho mình và cho con cháu một quê hương mới và một quốc tịch mới. Mộng ước của rất nhiều người Việt nam trong nước ngày nay cũng chỉ giản dị là được rời khỏi Việt nam và làm công dân một nước khác.

Có nhưng bạn tôi nói một cách rất quả quyết rằng trong bất cứ trường hợp nào và bất kể trong thời gian bao lâu cũng phải phân biệt tổ quốc với người cầm quyền; tổ quốc là vô hình, là cao cả, thiêng liêng, bất khả xâm phạm, chúng ta chỉ có bổn phận phải phụng thờ chứ không bao giờ có quyền oán trách. Như thế phải chăng chỉ có người dân có bổn phận với tổ quốc chứ tổ quốc không hề có một trách nhiệm nào đối với người dân? Trong một trang trước trước tôi đã nhắc đến chuyện người Phénicien ở thời tiền sử có tục lệ giết con tế thần Hammon, nhưng ít ra họ cũng được quyền mong đợi Hammon sẽ đem lại cho họ chiến thắng và sự thịnh vượng. Cái tổ quốc hoàn toàn vô trách nhiệm này còn cay nghiệt hơn cả Hammon. Như thế thì tổ quốc có lợi gì cho đời ta và ta có lý do gì, ngoài một sự u mê, để gắn bó với tổ quốc? Tốt hơn hết là ta đừng có tổ quốc, hay đi tìm một tổ quốc khác. Đó chính là điều nhiều người đã làm, hoặc đang muốn làm mà không nói ra. Có cộng đồng di dân nào mất căn cước dân tộc nhanh chóng cho bằng cộng đồng người Việt tị nạn? Trong vài thập niên nữa sẽ rất khó gặp được một người Việt còn viết và đọc được tiếng Việt tại Mỹ và tại Pháp.

Khái niệm về tổ quốc và lòng yêu nước của chúng ta rất đặc biệt, khác với hầu hết các dân tộc tiên tiến. Tổ quốc của họ gần gũi và cụ thể hơn tổ quốc của chúng ta. Sự kiện này có một giải thích: quốc gia và lòng yêu nước là những ý niệm rất mới đối với chúng ta.

Đây cũng là một điểm có thể gây tranh luận rát gay gắt. Chúng ta có một lịch sử dựng nước khá dài, ít ra cũng trên hai ngàn năm, và chúng ta đã độc lập từ mười thế kỷ nay. Lịch sử ta cũng không thiếu những chiến công mở nước và dựng nước oai hùng. Vậy thì quả là một nghịch lý khi nói rằng chúng ta chỉ mới biết đến quốc gia và lòng yêu nước gần đây thôi.

Nhưng có những điều có vẻ nghịch lý mà vẫn đúng, nếu nhìn một cách khác.

Thực ra lòng yêu nước mới chỉ xuất hiện ở nước ta từ đầu thế kỷ 20 này thôi. Trước đó trong ngôn ngữ ta không hề có hai tiếng “yêu nước” hay “ái quốc”, chúng ta chỉ biết có vua và khái niệm “trung quân” (trung thành với vua). Lòng yêu nước khi xuất hiện đã có vẻ rất ngộ nghĩnh đối với dân ta. Những người đầu tiên bày tỏ quan tâm với đất nước và dân tộc được gọi là những “nhà ái quốc”. Các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Ngọc Quyến v.v… là những nhà ái quốc. Ông Hồ Chí Minh lấy tên là Nguyễn ái Quốc. Nếu ai cũng yêu nước cả thì làm gì có những người nổi bật như những ‘nhà ái quốc”? Yêu nước vào đầu thế kỷ này như vậy phải là một điều lạ và một ngoại lệ.

Chúng ta được nhào nặn bởi văn hóa Khổng Giáo và, như đã nói ở một phần trước, văn hóa Khổng Giáo không có tổ quốc. Nước chỉ là một tài sản riêng của nhà vua, những người dân trong nước chỉ là những nô lệ của vua. Những người nô lệ không có bất cứ một quyền lợi nào và do đó cũng không có bất cứ một trách nhiệm nào. Họ chỉ phục tùng bạo lực mà thôi. Họ đã được “đạo đức” Khổng Giáo nhồi sọ trong hàng ngàn năm là phải biết ơn vua, tôn thờ vua và tuyệt đối phục tùng vua, và họ đã chấp nhận như một định mệnh. Nhưng nếu có kẻ nào khác giết vua và lên cầm quyền, họ cũng sẽ phục tùng vua mới như vậy. Họ không có tiếng nói và do đó cũng không có ý thức gì về đất nước. Vũ trụ của họ chỉ là gia đình. Nước non xa xôi nghìn dặm. “Làng nước” là thế giới bên ngoài. Đất nước chỉ là đất và nước. Họ quyến luyến với mảnh đất chứa đựng hài cốt tổ tiên họ, như một tình cảm tự nhiên ràng buộc con người với môi trường quen thuộc. Tình cảm này tuy là một thành tố thực sự của lòng yêu nước nhưng không thể đồng hóa với lòng yêu nước, một gắn bó tự nguyện và trách nhiệm đối với cộng đồng quốc gia. Ông cha chúng ta không chờ đợi một phúc lợi nào từ một chính quyền hoàn toàn không phải của họ; trái lại họ phải đóng sưu thuế, phải đi lính và cũng có thể bị giết oan. Nhà nước chỉ là gánh nặng mà số phận nô lệ bắt họ phải chịu đựng, họ không có quyền đòi hỏi gì ở nhà nước. Cái ý niệm tổ quốc cao cả, thiêng liêng, không trách nhiệm và không thể trách cứ không gì khác hơn là di sản của tâm lý nô lệ.

Tình trạng này không phải là đặc thù của Việt nam mà là của chung của các xã hội Khổng Giáo.

Chúng ta chỉ mới khám phá ra ý thức quốc gia và lòng yêu nước của chúng ta gần đây thôi. Điều không may cho chúng ta là ngay khi ý niệm quốc gia vừa xuất hiện, nó đã bị lấn át bởi ý thức hệ cộng sản, một ý thức hệ quốc tế chủ trương xóa bỏ không gian quốc gia để tiến thảng tới xây dựng một thế giơi đại đồng. Điều không may khác là, cũng như mọi ý niệm chính trị phương Tây được du nhập vào nước ta, ý niệm quốc gia và dân tộc đã chỉ được tiếp thu một cách hời hợt, qua lăng kính Khổng Giáo truyền thống, do đó ý niệm quốc gia vừa mới ra đời đã bị thiêng liêng hóa, rồi trở thành xa cách với người dân, một món nợ (nợ nưóc) hơn là một phúc lợi, một gánh nạng hơn là một may mắn. Tổ quốc thay thế cho thiên tử và cũng dễ sợ như thiên tử.

Sau đó nhưng cuộc chiến đẫm máu, những đọa đầy, đổ vỡ và thất vọng đã bóp nghẹt lòng yêu nước sơ sinh. Sự thiếu vắng của lòng yêu nước, và cái hệ luận tự nhiên của nó là tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, đã là nguyên nhân chính của khổ đâu gần đây và bế tắc hiện nay.

Tôi biết hai ký giả Pháp khá nổi tiếng. Họ không phải là những nhà văn nhà báo lớn nhất của nước Pháp, nhưng trình độ nhận thức của họ cao hơn hầu hết các chính trị gia Việt nam. Đặc điểm chung của họ là rất tha thiết đối với đất nước và con người Việt nam, do đó họ hiểu biết đất nước Việt nam hơn hẳn các chuyên gia về Việt nam khác.

Một người là Pierre d’Harcourt. Tôi đã gặp và thảo luận với Pierre d’Harcourt suốt một ngày năm 1966. Lúc đó tôi còn là một sinh viên trong khi ông đã là một ký giả nổi tiếng. Sau đó tôi gặp lại ông ta trong vài cuộc thảo luận về Việt nam nhưng chỉ đủ thì giờ để chào hỏi. Tôi không thể nói là thân với d’Harcourt, nhưng tôi vẫn theo dõi và biết những việc ông làm. Ông viết nhiều bài báo bênh vực Việt nam Cộng Hòa thời chiến tranh, ông cũng từng tranh luận nhiều trên các đài phát thanh, truyền hình và tại các buổi mít tinh. Lần nào ông cũng tỏ ra sắc bén, lấn áp đối phương với những lập luận chính xác và đầy đủ dư kiện. Phải hiểu rằng ở vào thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, khi chủ nghĩa cộng sản đang lên đến đỉnh cao của sự ngưỡng mộ và Đảng cộng Sản Việt nam được coi như lương tâm của thế giới, chọn lựa ủng hộ miền Nam, với những bê bối của các tướng lãnh được rêu rao và khuếch đại hằng ngày, là một chọn lựa rất can đảm của một người có lý tưởng. Sau năm 1975 Pierre d’Harcoun có viết một cuốn sách với một tít đầy ý nghĩa “Vietnam, qu’ as-tu fail de tes fils?” (Việt nam, Ngươi Đã Làm Gì Với Các Con Của Ngươi?), trong đó ông chất vấn đất nước Việt nam về những ngược đãi mà người dân Việt nam đã phải chịu đựng. Ông đánh giá cao con người Việt nam và cho rằng đất nước Việt nam đã phí phạm tài nguyên rất lớn nằm trong con người Việt nam vì đối xử tệ bạc đối với con dân của mình. Dù chống cộng kịch liệt, Pierre d’Harcourt đã không đổ lỗi riêng cho đảng cộng sản mà trách cứ cả đất nước Việt nam. Ông là một người phương Tây, và người phương Tây không coi tồ quốc là cao cả tuyệt đối đến nỗi không thể bị chất ván.

Sau năm 1975 Pierre d’Harcourt vẫn tiếp tục bênh vực chế độ Việt nam Cộng Hòa và công kích chế độ cộng sản. Ông cũng đã hoạt động nhiều dề bênh vực những người tị nạn, kể cả đóng góp nhằm xây dựng một lực lượng đối lập hải ngoại. Không may, ông đã chỉ gặp phải những người không tốt, rồi đi đến kết luận là người Việt nam không thực sự yêu nước. Tuổi già và sự thất vọng cuối cùng đã khiến ông bỏ cuộc.

Michel Tauriac thì tôi quen rất thân. Ông đã phỏng vấn tôi nhiều lần trên các đài truyền hình và phát thanh Pháp, rồi chúng tôi trở thành thân quen và gọi nhau bầng “tu, toi” (mày, tao) mặc dầu ông lớn hơn tôi gần hai mươi tuổi. Tauriac viết vô số bài và phóng sự về Việt nam, ông cũng là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết với các nhân vật chính là người Việt. Tauriac hoạt động chính trị khá tích cực, đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành truyền thông, và cũng làm cố vấn cho Jacques Chirac về các vấn đề Việt nam khi Chirac còn là chủ tịch đảng RPR (Tập Hợp Cộng Hòa) và thủ tướng Pháp.

Tauriac quả thật là hết lòng với Việt nam, ông làm tất cả những gì có thể làm cho Việt nam và hình như không bao giờ biết chán nản là gì. Trong tháng 8-1999, khi Nguyễn Mạnh Hùng, giáo sư tại trường đại học George Mason mà Tauriac từng quen biết và đã từng thăm viếng tại Washington DC, ghé Paris để tham dự một hội thảo quốc tế, Tauriac đã mời Nguyễn Mạnh Hùng và tôi dùng cơm tối. Trong câu chuyện, có lúc ông buột miệng than: “Chế độ cộng sản Việt nam chẳng mạnh gì, vấn đề là người Việt nam không có ý chí tranh đấu gì cả, người ta có cảm tưởng đó là một đàn cừu”. Phải thân tình làm Tauriac mới dám tự cho phép nói câu đó vì bình thường ông là người rất nhã nhặn. Thì ra ông cũng thất vọng. Cả Nguyễn Mạnh Hùng và tôi đều ngượng, nhưng đó là một sự thực mà chúng tôi không thể phản đối. ý chí tranh đấu của chúng ta còn kém cả các dân tộc châu Phi, chưa nói châu Mỹ La Tinh. ở bất cứ một nước nào khác, chắc chắn một chế độ như chế dộ cộng sản Việt nam không thể yên ổn như thế. Tôi chỉ biết giải thích cho Tauriac rằng người Việt nam không hèn nhát, vấn đề là họ đã quá thất vọng với đất nước Việt nam và đã mất đi lòng yêu nước. Một lần nữa tôi nghĩ rằng cần hòa giải người Việt với đất nước mình.

Một người có lý do nào để yêu nước?

Người ta có thể yêu nước vì quyền lợi. Đất nước là trật tự an ninh, là công lý, là công ăn việc làm, là an sinh xã hội, là sự bảo vệ khi di chuyển trên thế giới. Nhưng tổ quốc Việt nam lại chỉ là một de dọa và một gánh nặng. Người dân có thể bị bắt giam, quản chế, tịch thu tài sản một cách tùy tiện. Họ phải đóng thuế, đút lót, hối lộ cho quan chức nhà nước mà không được chờ đợi ở nhà nước một quyền lợi nào cả, ngay cả quyền phát biểu ý kiến của mình.

Người ta có thể yêu nước vì một niềm hãnh diện. Người Mỹ hãnh diện vì là công dân của siêu cường số một thế giới. Người Pháp, người Anh, người Đức và mọi người Tây Âu hãnh diện vì sự giàu có và những đóng góp to lớn về văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật của nước họ cho nhân loại. Người Việt nam chỉ có thể tủi hổ vì sự thua kém bi đát trên mọi phương diện của đất nước mình. Thỉnh thoảng cũng có những người chưa giác ngộ cố gắng để tự hào rằng chúng ta đã đánh thắng Pháp, thắng Mỹ, v.v… Nhưng niềm tự hào đó chỉ có tác dụng khiến cho chúng ta trở thành quê kệch trong một thế giới văn minh ghê tởm tất cả những gì liên quan tới bạo lực; hơn nữa nó còn xoáy vào một vết thương trên cơ thể dân tộc mà chúng ta cần quên đi.

Người ta cũng có thể yêu đất nước vì lý do giản dị là đó là đất nước của mình, như một người có thể yêu đứa con của mình không phải vì nó tài giỏi, thông minh hay giàu có, mà chỉ vì nó là con mình. Nhưng đất nước Việt nam cũng không còn là của người Việt nam. Nó đã bị chiếm đoạt làm của riêng của đảng cộng sản. Những công dân nào dám nói đất nước phải như thế này, thế kia mới khá có thể bị bỏ tù nếu những điều họ nói không giống như đảng muốn họ nói. Mà đảng cộng sản cũng không phải là của hai triệu đảng viên cộng sản. Những đảng viên, ngay cả các đảng viên cao cấp, cũng không tự do hơn người khác, có khi còn bị trói buộc hơn, càng cao cấp lại càng phải phục tùng đảng hơn trong lời nói và hành động. Đảng là một cái gì đó rất vô hình vì không là ai cả, nhưng lại rất cụ thể như công an, tòa án và nhà tù. Đất nước không còn là của ai cả, dù cộng sản hay không cộng sản. Vậy thì ai có lý do để yêu nước?

Người ta cũng có thể yêu nước vì được đào tạo bởi một văn hóa yêu nước. Nhưng trong cả hàng ngàn năm chúng ta đã chỉ được đào tạo bởi văn hóa Khổng Giáo, một thứ văn hóa vô tổ quốc, dạy người dân thờ chủ chứ không yêu nước. Thực ra đó cũng không phải là một văn hóa đúng nghĩa mà chỉ là sự nhồi sọ có mục đích huấn luyện những kẻ nô lệ phục tùng chủ nhân một cách không thắc mắc.

Người Việt nam không có lý do gì để yêu nước cho tới thế kỷ 20. Và sau đó họ được nhồi sọ là phải yêu nước vô điều kiện. Ngôn ngữ của tổ quốc Việt nam đối với người dân là “mày phải yêu tao và phục tùng tao tuyệt đối, còn tao không có bất cứ bổn phận nào đối với mày cả”. Tổ quốc xấc xược và thô bạo. Không có gì ngạc nhiên nếu người Việt nam không yêu nước, ngay cả khi họ không dám thú nhận là không yêu nước. Không có gì ngạc nhiên khi rất nhiều người sẵn sàng từ bỏ tất cả để ra đi chạy trốn nanh vuốt của tổ quốc.

Nhiều người, trong đó có chính tác giả cuốn sách này, đã từng dự đoán sự sụp đổ của chế độ cộng sản. Những dự đoán này đều đúng cả nhưng đã không xảy ra. Chúng ta dự đoán rằng đảng cộng sản sẽ mất hết chỗ dựa quần chúng, lý tưởng cộng sản trở thành lố bịch, khó khăn chồng chất, áp lực thế giới và trong nước lên đến mức ngột ngạt, nội bộ đảng và nhà nước phân hóa, v.v… Tất cả những dự đoán này đều đúng cả, nhưng chế độ vẫn không sụp đổ vì lý do giản dị là nó không gặp một sự chống đối đáng kể nào cả. Ngay cả khi nó có ngã gục trên chính quyền đi nữa, và trên thực tế có thể coi là nó đã ngã gục trên chính quyền, thì vẫn cần một sức mạnh nào đó để kéo cái thi thể đó đi chỗ khác.

Nhưng sức mạnh này chúng ta lại không có. Sai lầm khổng lồ của nhiều tổ chức chống cộng là đã chỉ dồn cố gắng để cô lập và tảy chay chế độ, trước đây chủ trương không gởi tiền giúp đỡ thân nhân, không du lịch Việt Cộng, không đầu tư vào Việt nam, sau đó vận động để Hoa Kỳ đừng bỏ cấm vận, đừng thiết lập quan hê ngoại giao, đừng hợp tác thương mại, đừng cho chế độ cộng sản hưởng qui chế quan hệ thương mại bình thường, v.v… Mục tiêu của những cố gắng này là nhằm làm dân chúng căm thù chế độ và làm chế độ gặp thêm khó khăn. Nhưng dân chúng đã căm thù chế độ vô cùng rồi và chế độ cũng đã chao đảo lắm rồi, nói cách khác mục tiêu đã đạt được từ lâu rồi. Cái thiếu là một kết hợp trên ý chí đổi đời và kết hợp này chỉ có một lòng yêu nước thực sự mới có thể mang lại.

Nhiều người không nhìn thấy rằng chìa khóa của lối thoát là lòng yêu nước. Nếu thực sự yêu nước thì người ta đều thấy ngay sự cần thiết của một tập hợp dân tộc mới và đã làm tất cả cố gắng và hy sinh để tập hợp này ra đời, người ta đã thực tâm đi tìm kiếm những người có tâm huyết và khả năng để kết nghĩa, đã hăng hái tham gia các tổ chức đấu tranh, đã sẵn sàng hy sinh tư kiến và lòng tự ái để tổ chức được bèn vững và phát triển, đã mong mỏi sát nhập tổ chức của mình với các tổ chức khác để hình thành một tổ chức lớn hơn. Người ta cũng sẽ rất phẫn nộ với nhưng phần tử bịp bợm, gian trá, phá hoại, v.v… Và một mặt trận dân chủ có tầm vóc đã hình thành từ lâu rồi. Nhưng thực tế đã trái hẳn. Tôi đã chứng kiến hnhiều tổ chức, chính trị cũng như cộng đồng, được xây dựng bằng rất nhiều công sức mà rồi tan vỡ chỉ vì những xích mích cá nhân rất nhỏ mọn. Tôi cũng đã chứng kiến những tổ chức thiếu cả về lý luận, nhân sự lẫn phương tiện nhưng không hề có ý định sát nhập vào một tổ chức nào lớn hơn để rồi tàn lụi dần đi. Và hàng ngày tôi vẫn thấy những khuôn mặt mà mọi người đều biết là hời hợt, cải lương, giả dối hay những tổ chức đã lộ rõ chân tướng là thiếu lương thiện vần tiếp tục hiện diện mà không bị lên án. Khi người ta không cần phân biệt phải trái, đúng sai, tốt xấu là người ta thực sự không quan tâm.

Đất nước sẽ đi về đâu?

Chúng ta thấy rõ là đất nước sẽ không ra khỏi được tình trạng bế tắc hiện nay, trừ trường hợp đảng cộng sản dám lấy một quyết định thực táo bạo là tự ý chuyển hóa thực sự về dân chủ. Nhưng không có dấu hiệu gì là họ có đủ dũng cảm đê lấy quyết định này, trái lại chỉ có những dấu hiệu ngược lại. Mặt khác, sự thay đổi đơn phương này không phải là không có nhưng rủi ro. Một chính sách cởi mở không chuẩn bị hoặc không lương thiện rất có thể sẽ chỉ làm bùng nổ những căm thù đã quá lớn và quá chồng chất, đưa đất nước vào tình trạng hỗn loạn. Để thay đổi, đảng cộng sản cần một đồng minh khách quan: một lực lượng dân chủ có hậu thuẫn quần chúng và thực sự muốn dân chủ hóa đất nước trong hòa bình và trong tinh thần hòa giải dân tộc. Nhưng lực lượng này chưa hình thành được vì một mặt người Việt nam không còn đủ ý chí để kết hợp, và mặt khác, do một sự mù quáng khó tưởng tượng, chế độ cộng sản đang dồn mọi cố gắng để ngăn cản sự hình thành của mọi đối lập ôn hòa. Chúng ta bế tắc.

Như thế, với tình trạng này, chế độ sẽ ngày một yếu đi, tiếp tục ruỗng nát thêm từ bên trong, trong khi xã hội càng ngày càng phân hóa và suy sụp, cho tới một lúc mà chính quyền trở nên rỗng tuếch và không kiểm soát được tình thế nữa vì không còn phương tiện để cai trị bằng bạo lực. Bất ổn và bạo loạn sẽ xảy ra khắp nơi, nhiều vùng sẽ không còn an ninh, trật tự và luật pháp. Lúc đó tất cả có thể xảy ra.

Đừng nên để lịch sử lặp lại một lần nữa. Chúng ta đã có một kinh nghiệm bi đát. Năm 1533, người giáo sĩ Thiên Chúa Giáo đầu tiên tới Việt nam giảng đạo. Từ đó giao thiệp với phương Tây ngày càng gia tăng, và tư tưởng phương Tây cũng đến cùng với hàng hóa. Tới cuối thế kỷ 17 đã có khoảng 10% dân chúng theo đạo Công Giáo, ảnh hưởng của tư tưởng Thiên Chúa Giáo nói riêng và tư tưởng phương Tây nói chung đã khá phổ biến trong dân chúng. Khổng Giáo, nền tảng của chế độ quân quyền, đã lung lay không còn đảm bảo được sự chính đáng của chế độ nữa. Tuy vậy, cả họ Nguyễn ở Đàng Trong lẫn họ Trịnh ở Đàng Ngoài đầu không ý thức được sự chuyển hóa không thể đảo ngược được của xã hội mà họ đang cai trị. càng chao đảo họ càng đàn áp, càng đàn áp họ càng làm cho xã hội tan nát thêm và chế độ của họ yếu thêm vì mất cả lòng dân lẫn sự chính đáng. Cả hai chế độ Trịnh Nguyễn đều mất dần nội dung và thực lực. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí mô tả một xã hội miền Bắc tan rã: chính quyền chỉ còn là cái vỏ rỗng, thiếu cả ngân khố lẫn quân đội. Quan triều đình ra đường bị dân chặn lại trấn lột ngay giữa kinh thành, dân chúng ai có sức khỏe thì đi ăn cướp. ở Đàng Trong, họ Nguyễn cũng không khá hơn, trộm cướp còn nhiều hơn và có tổ chức hơn theo những ghi chép của các giáo sĩ và thương nhân phương Tây. Và cả trong Nam cũng như ngoài Bắc không có một lực lượng canh tân đứng đắn nào ra đời. Thế rồi triều Nguyễn sụp đổ vì Trương Phúc Loan chuyên quyền và triều Trịnh sụp đổ vì loạn kiêu binh của đám lính Tam Phủ. Nhưng Trương Phúc Loan cũng như bọn lính Tam Phủ chỉ là những giọt nước cuối cùng làm tràn một bình đã đầy, hay một cơn gió nhẹ làm rụng một chiếc lá đã khô. Tất cả chỉ là biến cố ngẫu nhiên nhưng tất yếu của một quá trình phân rã. Không có Trương Phúc Loan này thì cũng sẽ có một Trương Phúc Loan khác, không có kiêu binh Tam Phủ thì cũng có kiêu binh khác, vì lý do căn bản là chính quyền đã mất căn bản chính đáng và quá yếu. Trong tình huống đó tất cả đều có thể xảy ra, dù không có gì có thể dự báo được.

Trong sự thiếu vắng của một lực lượng chính trị đúng đắn, sự suy yếu của cả hai chế độ Trịnh, Nguyễn cuối cùng đã chỉ để lại một khoảng trống quyền lực và một xã hội tan rã. Đảng cướp Tây Sơn, một đảng cướp thuần túy, không có bất cứ một dự án chính trị nào, đã cướp được chính quyền nhờ mưu lược và gan dạ. Họ đã cai trị đất nước một cách tàn bạo, để rồi cũng bị tiêu diệt một cách tàn bạo sau một cuộc nội chiến đẫm máu. Chúng ta biết những gì đã xảy ra sau đó: nước Việt nam kiệt quệ và đã thất bại dễ dàng trong cuộc xâm lăng của một đạo quân Pháp ít ỏi.

Ngày nay hơn hai thế kỷ sau, chúng ta đang đứng trước một tình trạng tương tự. Các tiếp xúc dồn dập với thế giới bên ngoài và các phương tiện truyền thông ngày càng hiện đại đã khiến khát vọng tự do dân chủ lên cao; chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tảng của chế độ cộng sản hiện nay cũng như Khổng Giáo đã là nền tảng của chế độ quân quyền ngày xưa, bị lố bịch hóa. Chính quyền không chịu đổi mới kịp đòi hỏi của tình thế và ngày càng phân hóa thêm. Cũng giống hơn hai thế kỷ trước, chúng ta không có một lực lượng xứng đáng làm một giải pháp thay thế. Chúng ta đang tiến tới một sự hỗn loạn tương tự, để rồi khi chính quyền đã quá yếu, một lấy anh chị nào đó nhờ táo bạo và khôn lanh, hay được hậu thuẫn của ngoại bang, sẽ nắm được chính quyền và làm đất nước đã tan nát lại càng tan nát thêm. Và cũng rất có thể nhiều người sẽ ca tụng tay anh chị đó và dùng đủ mọi lý luận để bênh vực, như nhiều người đã từng ca lụng Nguyễn Huệ.

Nhưng thảm kịch đã xảy ra hơn hai thế kỷ trước và thảm kịch có thể sẽ xảy ra sắp tới có thể chỉ giống nhau tới đó thôi chứ không thể giống nhau ở giai đoạn tiếp theo. Xã hội Việt nam ngày nay đã quá phức tạp và con người Việt nam ngày nay cũng quá khôn ngoan để một người hay một băng đảng dù mưu mô đến đều có thể gom thu về một mối mà không cần một dự án chính trị đúng đắn. Nước Việt nam có thể bị rã nát thành nhiều mảnh, dưới sự kiểm soát của nhiều thế lực với những quyền lợi khác nhau và những chỗ dựa khác nhau, như chúng ta đã chứng kiến tại một số nước châu Phi. Lúc đó, trong một thế giới ngày càng toàn cầu hóa, với ý niệm quốc gia dân tộc ngày càng bị tương đối hóa, sẽ chẳng có bao nhiêu người còn đủ tha thiết và quyết tâm để thống nhất lại đất nước. Vả lại có muốn cũng không được vì thống nhất là một điều rất khó thực hiện. Tôi có thể quả quyết điều này theo kinh nghiệm cá nhân: việc thống nhất các lực lượng rất thân hữu với nhau và có tất cả mọi lý do để kết hợp với nhau cũng đã quá khó rồi!

Việt nam có thể bị xóa bỏ như một quốc gia không? Nhiều người quả quyết là không, và tôi cũng tin như vậy. Nhưng điều đó chưa chắc đã đáng mừng. Còn có một điều quan trọng hơn sự tồn vong của quốc gia Việt nam, đó là cái trở thành của khối 80 triệu người Việt. Sự hấp hối của một quốc gia kéo dài rất lâu, hàng thế kỷ. Trong trường hợp một dân tộc đông đảo có lịch sử sống chung lâu đời, có một văn hóa khá đồng nhất và nhất là một ngôn ngữ chung như Việt nam, cơn hấp hối đó có thể kéo dài vô tận. Không chết được nhưng cũng không sống. Và khối người Việt nam sẽ ra sao? Sẽ chỉ có một số rất nhỏ tìm được quê hương mới tại những quốc gia dân chủ văn minh, trong số rất nhỏ này cũng sẽ chỉ có một số rất nhỏ hội nhập được thực sự vào xã hội mới, số còn lại sẽ chỉ là những công dân hạng thứ. Nhưng đó là những người may mắn. Đại bộ phận người Việt sẽ sống làm lũi, bơ vơ ngay trên đất nước mình dưới cái nhìn vừa thương hại vừa khinh khi của thế giới.

Nhất định chúng ta phải giữ lấy đất nước Việt nam, ít nhất vì chính quyền lợi của chúng ta. Thế giới tương lai sẽ không phải là thế giới của những con người vô tổ quốc, đó sẽ là thế giới của những quốc gia thân hữu. Quốc gia là một bảo đảm và một không gian tương trợ cần thiết cho cố gắng chung và thành công chung. Quốc gia là môi trường tự nhiên cho mỗi người để phát triển, như khu rừng cần cho con cọp để vùng vẫy. Và quốc gia cũng là một tình yêu để sống có hạnh phúc như cái hôn của mẹ cần cho một đứa trẻ để lớn lên.

Muốn giữ vững đất nước phải làm lại đất nước. Và muốn làm lại đất nước chúng ta không thể thiếu lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm. Đó là chìa khóa của vấn đề. Nhưng làm thế nào đễ phục hồi lại lòng yêu nước?

Trước hết mỗi người Việt nam phải ăn năn và sám hối.

Ăn năn vì chúng ta, mỗi người chúng ta, đã ngây thơ coi tổ quốc như là vô tận, không thể hao mòn và đã không quan tâm làm cho tổ quốc ngày một vững mạnh hơn và đáng yêu hơn.

Hay vì chúng ta đã khờ khạo nghĩ rằng mình có thể tự giải quyết các vấn đề cá nhân của mình bằng những giải pháp cá nhân như luồn lách, móc ngoặc, hối lộ, bỏ nước ra đi, v.v… mà không ý thức rằng phải có một giải pháp chung cho thảm kịch chung của 80 triệu người cùng một lịch sử, văn hóa và cùng một số phận.

Hay vì chúng ta sẽ không đủ thông minh để thấy cần kết hợp với nhau, chung sức chung lòng để cùng làm lại đất nước. Mỗi người chống cộng với tư cách cá nhân, tranh đấu một mình hay hài lòng với những tổ chức bỏ túi. Chúng ta đã tự cho mình vai trò quá cao bởi vì trí tuệ chúng ta quá thấp.

Hay vì chúng ta đã khiếp nhược, đã không dám chống lại sự tồi dở và sự bạo ngược, đã cúi đầu, đã giả câm giả điếc để được yên thân.

Hay vì, một cách giản dị, chúng ta đá sai lầm lớn khi nghĩ rằng đất nước không cần thiết lắm cho đời mình.

Sau đó, chính tổ quốc phải nhận lỗi về những đầy đọa đã gây ra cho các con mình, và tự sửa đổi. Tổ quốc phải rời bỏ bàn thờ thiêng liêng, tối cao và vô trách nhiệm để thân thiện đến với mọi người. Tổ quốc phải lột xác để trở thành một tổ quốc khác, một tổ quốc hiền hòa thay vì dữ tợn, một tổ quốc có trái tim thay vì có nanh vuốt, một tổ quốc khuyến khích thay vì cấm đoán, một tổ quốc đáng yêu thay vì đáng sợ, một tổ quốc che chở thay vì đe dọa. Tổ quốc phải là một tổ quốc trách nhiệm, cụ thể như một dự án tương lai chung và gần gũi như một người bạn, một tổ quốc biết hối hận và ăn năn.

Tôi biết chuyện một gia đình đầu khổ, người cha nghiện ngập, cờ bạc, hung bạo, gia đình là một địa ngục. Một ngày kia đứa con đã lớn lên và quyết định bỏ đi. Người cha bừng tỉnh, không ngăn con mà chỉ im lặng nhìn con sắp xếp hành lý. Khi đứa con đã ra đến cửa, ông rầu rầu xin lỗi nó và chúc nó may mắn. ít lâu sau đứa con lại trở về.

Tổ quốc ăn năn thì tổ quốc sẽ hồi sinh, sẽ đẹp và mạnh. Và mỗi người sẽ đều được phúc lợi. Cọp lại có rừng để vùng vẫy, đứa trẻ lại có mẹ để hôn.