Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời.
Tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi…

Phạm Duy (Tình ca)

Một lý do quan trọng khác khiến chúng ta kém về truyền thông là chúng ta khinh thường tiếng Việt. Mà đã khinh thường tiếng mẹ đẻ thì hậu quả tất nhiên là kém về truyền thông, vì tiếng mẹ đẻ dù thế nào đi nữa cũng vẫn là ngôn ngữ mà một con người có thể sử dụng hay nhất. Nó là những tiếng đầu đời đã nhào nặn ra ý niệm, tình cảm, tâm hồn của con người. Một người dù có học và sử dụng một ngoại ngữ nhiều thế nào đi nửa vẫn không thể diễn tả tư tưởng và tình cảm của mình một cách trung thành và tế nhị bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Đó vẫn chỉ là một ngôn ngữ mượn mà thôi. Những người trẻ trưởng thành tại hải ngoại có khả năng truyền thông hơn hẳn cha anh vì được huấn luyện một cách khác, được khuyến khích phát biểu; nhưng cũng vì tiếng Anh, tiếng Pháp được hấp thụ từ mẫu giáo và gần như là tiếng mẹ đẻ của họ. Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ.

Sự khinh thường tiếng Việt là một truyền thống của người Việt nam. “Nôm na là cha mách qué”, tiếng Việt là tiếng không cao thượng. Những văn bản quan trọng phải viết bằng chữ Nho. Người Việt ta khi cần nói một điều trịnh trọng, trang nhã rất thường hay xổ Nho: “Thưa anh dĩ hòa vi quí, mình chẳng nên đôi co với họ làm gì, biết họ như vậy rồi mình cứ kính nhi viễn chi là hơn”. Không biết bao nhiêu lần rồi tôi đã nghe những câu nói tương tự như vậy, ngay cả tại hải ngoại này, ở cửa miệng hay ở ngòi bút của những người có học thức và sử dụng tiếng Việt một cách nhuần nhuyễn hơn hẳn mức trung bình.

Chắc vì coi tiếng Việt là thứ tiếng tầm thường, thấp kém nên khi viết và nói người ta không cần một thận trọng nào, bất chấp cả văn phạm lẫn chính tả. Trái lại khi phải viết một văn bản bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, người ta đắn đo từng câu, từng chữ, viết đi viết lại nhiều lần, ớm hỏi người này người kia viết như thế có đúng không, có hay không, v. v… Sự yên trí rằng viết tiếng Việt thì thế nào cũng được thể hiện ngay cả trong những tài liệu quan trọng. Trong bản cương lĩnh của “Phong Trào Yểm Trợ Dân Chủ và Tái Thiết Việt nam” của cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dài khoảng ba trang đánh máy, tôi đếm được gần một trăm lỗi chính tả và văn phạm. Đó là văn kiện căn bản của một nhân vật đã từng cầm vận mệnh của đất nước và có lẽ còn muốn cầm tiếp. Cẩu thả đến thế là cùng. Chung quanh ông Thiệu chắc chắn là có những người biết tiếng Việt nhưng ông Thiệu đã không thấy cần phải hỏi ý kiến họ. Viết tiếng Việt mà, thế nào cũng được. Giả sử phải viết một bản tuyên ngôn bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh chắc ông Thiệu sẽ thận trọng hơn nhiều.

Tôi không trách riêng ông Thiệu, bởi vì đại đa số người Việt đều xử sự như thế, kể cả những người không biết một ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Việt. Năm 1974, tôi nhận dạy kinh tế cho một trường đại học tại Sài Gòn. Trước khi bắt đầu, tôi hỏi một số giáo sư dạy kinh tế cho tôi xem những bài đã được chấm đậu những năm trước. Mục đích của sự tham khảo này chỉ là để xem trình độ tiếp thu của sinh viên về môn kinh tế như thế nào. Những tôi lại khám phá ra một sự kiện khác, kinh khủng hơn nhiều. Các sinh viên ở năm cuối cùng, sắp tốt nghiệp, hoàn toàn không biết viết tiếng Việt. Họ viết những câu rất dài và luộm thuộm, sai văn phạm, sai chính tả, sai cả nghĩa của từ ngữ. Bực bội quá tôi phải dọa các sinh viên là sẽ không chấm những bài viết sai tiếng Việt. Rời tôi đặt ra một qui luật có thể là hơi quá đáng: mỗi bài sẽ được chấm trên 20 điểm, 10 điểm trên ngữ pháp, 10 điểm về nội dung, nhưng nếu bài không đủ 5 điểm về ngữ pháp thì sẽ không được chấm phần nội dung nữa. Biện pháp quá khích đó có lẽ đã có tác dụng làm các sinh viên coi trọng Việt văn hơn.

Trong các đơn xin việc tại Ngân Hàng Việt nam Thương Tín hay những đơn khiếu nại tại Bộ Kinh Tế, tôi gặp vô số đơn “Thưa ông…, nguyên tôi là….” Tại sao lại “nguyên”? Chưa kể “xin cứu xét cho chúng tôi được dễ dãi”, v. v…. Đơn thường do những người tốt nghiệp đại học viết. Ngay cả những bài nghị luận chính trị trên báo chí, nhiều khi cũng không thể tìm ra chủ từ, động từ, túc từ. Ngay những nhà văn cũng không ngần ngại viết “xử dụng”, “giòng sông”, “dỗi dãi”, “yên tỉnh”, “đấu tranh dành tự do dân chủ”. Một biểu ngữ lớn trong cuộc mít-tinh lớn: “Cương quyết xiết chặc hàng ngủ…” Những lỗi chính tả, và ngay cả văn phạm, nhiều khi cũng có thể bỏ qua được, điều khó chịu nhất là nhiều khi đọc đi đọc lại vẫn không biết tác giả định nói gì. Đành phải đoán mò.

Viết đã ẩu, đọc lại càng ẩu hơn. Anh em Thông Luận chúng tôi đã là đối tượng của vô số bài đả kích vì lập trường Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc. Chúng tôi đã mất rất nhiều thì giờ để giải thích thế nào là hòa giải dân tộc, thế nào là hòa hợp dân tộc, tại sao lại phải hòa giải trước, hòa hợp sau v.v… Vậy mà trên 90% những bài đả kích chúng tôi vẫn nói chúng tôi là nhóm chủ trương “hòa hợp hòa giải”, nhiều bài còn nói chúng tôi chủ trương “hòa hợp hòa giải dân tộc với cộng sản”! Đọc ẩu trước khi lên án đã là tệ, có người còn không đọc. Một vị ở Canada viết cho chúng tôi một bài với tựa đề “Trả lời lập trường hòa hợp hòa giải của Thông Luận”, vạch ra thái độ ngây thơ ấu trĩ của chúng tôi. Một câu làm cho chúng tôi sửng sốt: vị này cho biết chưa hề đọc Thông Luận bao giờ, mà chỉ được biết tới lập trường của chúng tôi qua những bài đả kích.

Cái vòng luẩn quẩn là người Việt viết luộm thuộm khó hiểu người đọc kỹ cũng không thể hiểu, nhưng người đọc không cần đọc kỹ mà vẫn trả lời một cách cũng hò đò, cũng luộm thuộm khó hiểu không kém. Phải nhìn nhận một sự thực đau lòng: chúng ta là một dân tộc không biết đọc, không biết viết, và không biết nói.

Tiếng Việt là phương tiện trao đỗi giữa chúng ta. Phương tiện ấy mà hư hỏng thì chúng ta không hiểu được nhau như khi nói chuyện qua một đường điện thoại đầy nhiễu xạ. Tiếng mẹ đẻ nếu không phải là ngôn ngữ duy nhất thì cũng vẫn là ngôn ngữ dễ sử dụng nhất cho mỗi người, vì nó hợp với tâm hồn và bản tính. Đã không thạo tiếng Việt thì dù có học một ngôn ngữ khác công phu tới đâu chúng ta vân chỉ là những người truyền đạt kém cỏi.

Mà tiếng Việt có khó gì đâu, nó phù hợp với cách suy nghĩ của ta. Chỉ cần lưu ý một chút chúng ta sẽ có thể truyền đạt và lãnh hội mọi thông điệp một cách dễ dàng. Lý do căn bản có lẽ là vì ta không yêu nước đầy đủ để có thể quí trọng những tài sản của đất nước. Hay vì chúng ta thiếu tự hào dân tộc cho nên không nhìn những di sản của đất nước một cách trân trọng.

Tiếng Việt tuy không khó nhưng cũng không dễ. Nó có khả năng chuyên chở mọi thông điệp, mọi ý niệm, dù là văn hóa, nghệ thuật, chính trị, kinh tế, triết học, khoa học, kỹ thuật. Nó có thể và phải được coi là nhịp cầu nối người Việt chúng ta với nhau, cho phép chúng ta trao đổi với nhau, hiểu nhau, chỉ bảo cho nhau, để quí trọng nhau và cùng nhau xây dựng một tương lai Việt nam chung.

Nếu tiếng Việt ta chưa hoàn chỉnh thì ta cần cải thiện và phong phú nó – thêm vào một số âm, chấp nhận thêm một số từ đa âm, chế ra một số tiếng mới cho những ý niệm mới – rồi tiếp tục phát huy nó. Ngôn ngữ là một cố gắng sáng tạo không ngừng. Tiếng Pháp được coi là một ngôn ngữ hoàn chỉnh và người Pháp cũng có tiếng là dân tộc hoạt bát nhất thế giới, nhưng họ luôn luôn mài dũa ngôn ngữ của họ. Hồi làm tham vấn cho công ty xe hơi Renault của Pháp, tôi được chứng kiến một biện pháp bảo vệ ngôn ngữ rất gay gắt. Ông chủ tịch tổng giám đốc Raymond Lévy, mặc dầu đang điên đầu với tình trạng thua lỗ trầm trọng, vẫn còn đủ tỉnh táo để nhận xét rằng các văn kiện nội bộ không được soạn thảo một cách lưu loát và sáng sủa. Ông cho rằng đó là một trong những nguyên nhân đưa đến thua lỗ. Ông ra một thông cáo cho tất cả các cấp lãnh dạo cho biết rằng từ nay ông dành quyền trả lại người gởi mà không nêu lý do tất cả những văn thư không được soạn thảo bằng một tiếng Pháp tuyệt đối hoàn chỉnh. Không phải là ông không biết lo những vấn đề khác ông cố gắng lắm, bằng cớ là xe hơi Renault nổi tiếng là loại xe kém phẩm chất nhất, sau năm năm dưới quyền lãnh đạo của ông đã trở thành những chiếc xe nổi tiếng là tốt và bền bậc nhất châu Âu. Hãng Renault từ một hãng xe hơi lỗ nặng nhất châu Âu trở thành một hãng có lời, và gần đây đã sát nhập hãng Nissan một thời lừng lẫy của Nhật.