Những thí dụ phản bác?

Tự do, dân chủ đi trước và tạo ra phát triển kinh tế chưa phải là một niềm tin phổ cập. Cho tới nay vẫn có một số khá đông người cho rằng phát triển kinh tế tạo ra dân chủ, với hệ luận là các dân tộc đang chịu ách độc tài hãy cứ tạm gác những đòi hỏi về tự do dân chủ để tập trung cố gắng phát triển kinh tế, sau đó chính phát triển kinh tế sẽ mang lại tự do dân chủ. Đây là một lý luận rất tiện nghi cho các chế độ độc tài như Việt nam; không có gì ngạc nhiên nếu họ sử dụng nó. Điều đáng tiếc là nhiều người khao khát tự do dân chủ cũng hoài nghi và không thể phản bác luận điệu “kinh tế đi trước chính trị” một cách thực dứt khoát.

Những phân vân về tương quan giữa dân chủ và phát triển có ít nhất ba nguyên nhân.

Một là, trên thực tế phát triển kinh tế cũng thúc đẩy dân chủ và tự do vì thế mà chúng ta dễ lẫn lộn hậu quả với nguyên nhân.

Hai là do chính hiệu lực nhanh chóng của tự do dân chủ: nó lập tức đưa đến tiến bộ về mặt kinh tế, do đó một số người không nhận ra cái gì trước cái gì sau.

Ba là, vì nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhất là sự kháng cự của những người lãnh đạo không chịu từ bỏ lập tức những đặc quyền đặc lợi, dân chủ và tự do không tới toàn bộ cùng một lúc mà thường tới từng đợt một, dưới sức ép của thực tại xã hội theo từng mức độ phát triển người quan sát thiếu chăm chú khó thấy được rằng ở mỗi giai đoạn một mức độ dân chủ tự do lớn hơn đã cho phép một mức độ phát triển lớn hơn.

Trong cuộc kháng cự lồng lộn để cố giữ nguyên quyền lực của họ, các chế độ độc tài dùng đủ mọi lập luận, nhiều khi dựa vào những giải thích gian trá của chính hiện tượng phát triển tại các quốc gia đang dân chủ hóa. Những kinh nghiệm thường được viện dẫn để phản bác những đòi hỏi dân chủ và nhân quyền là trường hợp của những nước được mệnh danh là “các con rồng châu Á” như Đài Loan, Nam Hàn, Mã Lai, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Brunei, và đói khi ngay cả Hồng Kông. Các chế độ độc tài châu Á, nhất là Việt nam, thường căn cứ vào đó để nói rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ và chính phát triển kinh tế sẽ đem lại dân chủ. Sự thực như thế nào? Chúng ta lại thử làm một vòng khảo sát.

Cần loại bỏ ngay trường hợp Hồng Kông. Đó là một nhượng địa của nước Anh cho tới ngày 30-6-1997. Một toàn quyền người Anh đại diện cho nước Anh, giao toàn bộ việc quản lý đời sóng hàng ngày cho một guồng máy hành chính người Hồng Kông. Vị toàn quyền không ở đó để áp đặt một ách thống trị, vai trò của ông là đảm bảo các quyền tự do theo quan niệm của nước Anh. Trong những năm cuối cùng trước khi trao trả Hồng Kông cho Bắc Kinh, toàn quyền Chris Patten còn xuất hiện như một người luật sư của tự do, dân chủ và nhân quyền tại châu Á. Ông bị nhiều chế độ châu Á đả kích như một nhân vật “giáo điều nhân quyền”.

Dưới sự giám sát và bảo vệ của nước Anh, Hồng Kông là một mẫu mực thành công của khuôn mẫu dân chủ tư bản phương Tây. Hồng Kông không những không chứng minh rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ, trái lại nó còn là bằng chứng đầu tiên tại châu Á về phép mầu dân chủ tư bản.

Cũng phải loại bỏ trường hợp của Brunei trong cuộc thảo luận về tương quan giữa dân chủ và phát triển. Đúng là vương quốc nhỏ bé này không có dân chủ, chế độ của nó là một chế độ quân chủ tuyệt đối mặc dầu vậy nó vẫn có một mức sống rất cao. Những trước hết Brunei chỉ giàu chứ không phát triển. Brunei là một quốc gia giàu có lạc hậu. Hãy cứ nhìn trong những phim tài liệu những rác rưởi trôi lềnh bềnh và ngập ngụa dưới chân những làng cất trên cọc cao bên mé sông, mé biển. Brunei cũng không phải là một quốc gia mà chỉ là một giếng dầu. 260.000 dân sống trên một diện tích nhỏ xíu chưa đầy 6.000 km2, trong đó quá ba phần tư là rừng hoang. Brunei không muốn độc lập mà đã bị nước Anh bắt phải độc lập và đã tự an ủi bằng cách xây một hoàng cung tốn kém 350 triệu USD, tốn kém này nếu đem chia cho dân số thì mỗi người phải “đóng góp” 1500 USD. Muốn hình dung sự hoang phí này phải tưởng tượng nước Mỹ bỏ ra 350 tỷ USD để xây tòa Bạch ốc. Sự giàu có của Brunei không do con người làm ra mà đã phun từ lòng đất lên. Con người ở đây không cần làm gì cả, cũng không phải đóng một loại thuế nào, mà được chu cấp tất cả một cách dồi dào. Chắc chắn họ có thể chấp nhận bỏ qua dân chủ và tự do với giá này. Nhưng thực ra là họ cũng không mất gì cả. Họ sống quá sung túc và không cần tranh đấu đòi hỏi bất cứ gì, do đó không có ý định chống lại nhà vua, và ngược lại nhà vua cũng không cần kiểm soát họ. Nhà vua cũng không cần cấm đoán họ đi đâu vì đi đâu họ cũng không sung túc như ở chính nước họ. Cũng không có một quốc gia nào ngăn cản những du khách Brunei tới nước họ để tiêu xài. Kết quả là do sự sung túc cực kỳ người Brunei có tất cả mọi quyền tự do, trừ quyền tự do trai gái hôn nhau ngoài đường do phong tục Hồi Giáo. Brunei vẫn thiếu mở mang.

Singapore: một thị trưởng xuất sắc

Singapore cũng là một trường hợp rất hi hữu. Nó là một thành phố thương cảng hơn là một quốc gia và cũng không phải là một thành phố lớn, với một diện tích 639 km2 và một dân số chưa đầy ba triệu. Nhưng Singapore không phải là một ngoại lệ đối với qui luật “tự do dân chủ tạo ra phát triển”. Được thành lập từ đầu thế kỷ 19 bởi một người Anh, bắt đầu từ một làng đánh cá với khoảng một trăm người, Singapore chưa hề biết tới một tổ chức xã hội nào khác hơn là khuôn mẫu tự do dân chủ phương Tây. Singapore được hoàn toàn tự trị dưới sự giám sát của người Anh tương tự như Hồng Kông từ 1959 và trở thành một nước độc lập từ 1965. Chính quyền nằm trong tay một quốc hội xuất phát từ bầu cử tự do và quốc hội chỉ định một thủ tướng. Chắc chắn Singapore không phải là một chế độ dân chủ gương mẫu. Đảng Nhân Dân Hành Đồng, cầm quyền từ ngày độc lập, đã sử dụng những biện pháp không mấy lương thiện để tiếp tục nắm chính quyền, chẳng hạn như trợ cấp cho những khu nào bầu cho đảng cầm quyền. Nhưng các đảng đối lập không bị cấm, người đối lập không bị bỏ tù, báo chí không là độc quyền của nhà nước. Đảng cầm quyền dùng các biện pháp bất chính để thắng cử nhưng không cấm đối lập ứng cử và không gian lận kết quả các cuộc bầu cử. Singapore cũng là một nước có luật lệ khá khe khắt, nhưng với một diện tích quá nhỏ và một mật độ dân số 5.000 người trên một cây số vuông, đó có lẽ là cái giá phải trả để giữ gìn trật tự an ninh. Vả lại luật pháp tuy khe khắt nhưng lại được áp dụng một cách đứng đán cho tất cả mọi người. Và dẫu sao nhu cầu dân chủ cũng không đặt ra cho một thành phố nhỏ như Singapore một cách gay gắt như đối với một quốc gia lớn. Dân chủ chủ yếu là phương thức sinh hoạt cho một nước có tầm vóc đáng kể, phải đương đầu với những chọn lựa lớn và phải cai trị một dân số đông đảo với nhưng điều kiện sinh hoạt, những ưu tư và nguyện ước khác nhau. Singapore không có nhưng vấn nạn đó. Chức năng của nó rất ro rệt vì con người ở đây không có mục đích nào khác hơn là làm giàu; điều mà họ mong muốn là được tự do sinh sống và làm ăn, và họ đã đạt được. Nhu cầu dân chủ chỉ là thứ yếu.

Trong những năm gần đây, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu, người đã có công dẫn dắt Singapore trong hơn ba mươi năm trên con đường đi tới phồn vinh, đã lên tiếng nhiều lần đề cao “những giá trị châu Á” với một giọng điệu bài bác chung chung các giá trị của phương Tây. Vì tự do, dân chủ và nhân quyền được coi là những giá trị của phương Tây nên những phát biểu của họ Lý được hiểu là không thuận cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Nhà cầm quyền cộng sản Việt nam đã lập tức tôn ông Lý làm bậc thầy (trên thực tế họ đã mời ông làm cố vấn, để rồi có lúc bị ông mắng là không chịu cải tổ kịp thời).

Nhưng đối với Singapore, chúng ta không nên quên hai sự kiện rất cơ bản:

Một là, dù Singapore có phồn vinh đến đâu đi nữa nó cũng chỉ là một thành phố trung bình và dù ông Lý Quang Diệu có thành công đến đâu đi nữa ông cũng chỉ có kinh nghiệm của một viên thị trưởng. Ông có thể lấy kinh nghiệm của mình để làm cố vấn cho một thành phố thương cảng như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng nhưng ông không thể dạy bảo một quốc gia với những vấn đề mà ông chưa bao giờ biết tới.

Hai là, có một cái gì rất khôi hài trong “những giá trị của châu Á” mà Lý Quang Diệu đề cao khi đã về hưu. Hơn tất cả mọi quốc gia và hơn cả Hồng Kông, Singapore là nước châu Á bị Tây phương hóa nặng nhất. Mọi người Singapore đều thạo tiếng Anh và đa số không viết thạo tiếng Tàu. Tập tính của người Singapore là tập tính buôn bán, tôn giáo của Singapore là của cải vật chất, cái Khổng Giáo mà ông Lý đề cao chỉ là một thứ Khổng Giáo đô-la. Trong suốt cuộc đời hoạt động của ông, Lý Quang Diệu đã dồn mọi có gắng để bắt chước phương Tây tối đa. Chỉ đến khi về già, ông mới bày tỏ một sự lưu luyến muộn màng với nguồn gốc Trung Hoa của ông. Đó chẳng qua là tâm lý lá rụng về cội thông thường của con người. Người ta có thể hiểu ông nhưng không thể lấy những lời nói của ông làm tiền mặt.

Mã Lai: dân chủ ngay từ khi thành lập

Mã Lai cũng không khác Singapore bao nhiêu về quan hệ với phương Tây. Đó cũng là một quốc gia hoàn toàn do người phương Tây thành lập ra, lãnh thổ chỉ mới tạm ổn định từ năm 1963: Lịch sử của quốc gia này, với một diện tích 330.000 km2 (đúng bằng Việt nam) nhưng chỉ có khoảng 20 triệu dân, chỉ thực sự bắt đầu từ thế kỷ 16. Trước đó, trong những thế kỷ đầu của công nguyên bán đảo Mã Lai chỉ là một vùng rừng núi hoang vu với một số rất nhỏ thổ dân, và là trạm dừng chân của các đoàn thuyền buôn từ phương Bắc, phần lớn từ ấn Độ, tới Sumatra. Những người Bumiputra, tự coi là chủ nhân của đất Mã Lai, chỉ bắt đầu đến từ Sumatra từ thế kỷ thứ VIII. Dấu vết chính trị đầu tiên được ghi nhận là một vương quốc nhỏ được thành lập ở phía Nam bán đảo đầu thế kỷ 15. Khi một số người Bồ Đào Nha đến chinh phục mỏm Malacca năm 1511, họ chỉ gặp một sự kháng cự rất yếu ớt của những bộ lạc rất lẻ tẻ. Người Bồ Đào Nha đã đóng góp làm cho sinh hoạt thương mại phát triển mau chóng. Hơn một thế kỷ sau, năm 1641, Mã Lai lại được may mắn khác: người Hòa Lan, một dân tộc rất sáng lạo và giàu óc kinh doanh, hất cẳng người Bồ Đào Nha và chiếm lấy Mã Lai. Sự thịnh vượng lại càng gia tăng dưới sự cai trị của người Hòa Lan, nhưng nó cũng bắt đầu cám dỗ một đế quốc mới vừa qua mặt Hòa Lan về sức mạnh: nước Anh. Năm 1795 Hòa Lan phải nhường bán đảo Mã Lai và vùng Bắc Borneo cho Anh để rút về cố thủ quần đảo Indonesia.

Sự khác biệt rất lớn giữa hai đế quốc thực dân lớn nhất trong, thế kỷ 19, Anh và Pháp, là ở chỗ người Pháp cố gắng phá vỡ mọi giềng mối quốc gia có sẵn để dễ thống trị, trong khi người Anh cố thành lập ra những quốc gia ngay cả ở những nơi không có quốc gia để có những đối tác kinh doanh. Trong suốt một thế kỷ họ đã tạo dựng ra nước Mã Lai bằng cách kết hợp những cộng đồng rất khác khau trên bán đảo. Họ thành lập ra Liên Bang Mã Lai năm 1891, mở rộng dần dần lãnh thổ và quyền tự quản của người địa phương, rồi trả độc lập cho Mã Lai năm 1957, sau khi đã ký kết một hiệp ước quân sự. Cũng chính người Anh năm 1963 đã sáp nhập vùng đất phía Bắc đảo Borneo vào Liên Bang Mã Lai.

Sự nhắc lại vắn tắt lịch sử Mã Lai này cho thấy nó hoàn toàn được tạo dựng lên do người phương Tây, cho nên tinh thần nền tảng của nó không thể khác phương Tây, nghĩa là tự do và dân chủ. Quốc gia tân lập này gồm 55% người Bumiputra nói tiếng Mã Lai (tiếng nói chung của nhiều sắc dân thuộc quần đảo Indonesia nơi họ xuất phát), hơn 30% người gốc Trung Hoa và non 10% người gốc ấn Độ. Người Trung Hoa tuy ít hơn về dân số nhưng lại hơn hẳn người Bumiputra về kiến thức và tài sản. Với một cấu tạo nhân chủng như vậy, Mã Lai không thể tồn tại dưới một chế độ độc tài. Nó đã tồn tại được nhờ một thỏa thuận: người Hoa nhường nhịn người Bumiputra, và người Bumiputra chấp nhận người Hoa. Cũng cần lưu ý một đặc điểm của người Hoa ở Mã Lai: họ là những người thích buôn bán làm giàu hơn là thích quyền lực chính trị. Trong thời gian thế chiến II, hầu như đã chỉ có một nhóm nhỏ cộng sản gốc Hoa kháng chiến chống lại quân chiếm đóng Nhật. Tháng 8-1945 khi Nhật đầu hàng, họ đã nắm được chính quyền tại Mã Lai nhưng đã hạ khí giới khi người Anh trở lại vì tự thấy không đủ sức mạnh và hậu thuẫn quần chúng để chống lại. Người Anh vì thế đã lấy lại được quyền lực một cách không tốn kém và tiếp tục tạo dựng ra Liên Bang Mã Lai. Về sau này, khi Đảng cộng Sản Mã Lai phát động kháng chiến trở lại, họ cũng chỉ qui tụ được, ở lúc mạnh nhất, không đầy bảy ngàn người, chu yếu là người Hoa, và dần dần tàn lụi đi. Tập tính hiếu hòa, chăm làm giàu và không ham quyền lực của người gốc Hoa là bí quyết của sự phát triển của Mã Lai sau này, đồng thời cũng là lý do khiến cho Mã Lai tiếp tục đứng vững.

Gần đây, những lời tuyên truyền chống các giá trị phương Tây, hàm ý chống dân chủ và nhân quyền, của thủ tướng Mahathir Bin Mohamad đã làm những người dân chủ Việt nam khó chịu và chính quyền cộng sản Việt nam khoái chí, nhưng ta cần phải hiểu ràng đó chỉ là những lời tuyên bố dùng cho nhu cầu tiêu thụ nội địa mà thôi. Sự thực không phải như vậy. Mã Lai ngay từ ngày thành lập đã được hưởng không khí tự do dưới sự giám sát của người Anh. Từ khi có độc lập nó là một nước dân chủ (chế độ chính trị của Mã Lai là quân chủ lập hiến nhưng rất ít ai biết đến vua Mã Lai). Nền dân chủ đó không hoàn chỉnh do điều kiện dân trí, nhưng có tất cả mọi yếu tố cốt lõi của dân chủ: tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Các chính đảng được hoạt động tự do, các cuộc bầu cử diễn ra một cách đúng hạn kỳ và lương thiện từ ngày độc lập. Mã Lai hoàn toàn không phải là một chế độ độc tài. Luật pháp Mã Lai có nhiều khe khắt nhưng do một quốc hội dân cử biểu quyết ra. Những diễn văn bảo thủ của Mahathir chỉ có mục đích tuyển cử: toàn bộ giới lãnh đạo Mã Lai, kể cả Mahathir, đều thuộc giai cấp trưởng giả thành thị Tây phương hóa 100%, nên luôn luôn lo sợ bị một đảng bảo thủ mị dân nổi lên đánh bại. Mahathir bài xích phương Tây chỉ để tỏ ra mình vẫn là Mã Lai, vẫn truyền thống và không mất gốc.

Mã Lai hoàn toàn không phải là bằng chứng cho rằng một quốc gia có thể phát triển mà không cần tự do dân chủ. Ngược lại, hoàn toàn ngược lại, đó là bằng chứng rằng dân chủ và tự do đã có khả năng biến một quốc gia tân lập, với dân trí thấp và chủng tộc phức tạp thành một trong những quốc gia giàu mạnh nhất vùng Đông Nam Á.

Đại Hàn Dân Quốc: sự thành công của những chế độ độc tài sáng suốt?

Một ngộ nhận khác của người Việt nam là trường hợp Nam Cao Ly (tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc). Quốc gia nhỏ bé này, với diện tích 98.500 km2, chưa bằng một phần ba Việt nam, và dân số 47 triệu, trong vòng ba thập niên đã vươn lên từ địa vị một nước nghèo và bị chiến tranh tàn phá thành cường quốc kinh tế thứ 11 của thế giới. Trong vòng hơn ba mươi năm, từ 1960 đến 1993, Nam Cao Ly được các tướng lãnh cai trị cho nên dưới mắt thế giới đó là một nước độc tài quân phiệt. Thành công ngoạn mục của Nam Cao Ly vì thế đã được nhiều tập đoàn độc tài, đặc biệt là chính quyền cộng sản Việt nam, lấy làm bằng cớ là một chế độ độc tài sáng suốt có khả năng phát triển kinh tế hiệu lực hơn là một chế độ dân chủ. Sự thực như thế nào?

Các tướng lãnh thay nhau lên làm tổng thống Nam Cao Ly chắc chắn không phải là những người yêu chuộng dân chủ và nhân quyền. Pak Chung Hee (Phác Chính Hy) đã bắt cóc và định thủ tiêu lãnh tụ đối lập Kim Dae Jung (Kim Đại Trung), tướng Chun Doo Hwan (Toàn Đầu Hoán) đã tàn sát hàng trăm sinh viên tại Kwangju. Họ là những tay võ biền, và chính tình trạng căng thẳng do sự hiện diện của một chính quyền quân phiệt hung dữ tại Bắc Hàn đã dưa họ lên cầm quyền. Nhưng họ không áp đặt được chế độ độc tài. Nam Cao Ly vẫn là một nước dân chủ, với đầy đủ nhưng yếu tố cơ bản của một chế độ dân chủ: tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Trên thực tế, những cuộc bầu cử tại Nam Cao Ly đã rất sôi nỗi với nhưng kết quả rất khít khao. Syng Man Rhee (Lý Thừa Vãn) bị lật đổ năm 1960 bởi những cuộc xuống đường rầm rộ phản đối bầu cử gian lận. Tướng Pak Chung Hee chỉ hơn đối thủ Djang Myon không đầy 1% trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1963. Do thành công ngoạn mục về kinh tế, ông đắc cử vẻ vang năm 1967 (87%), nhưng bốn năm sau đó, năm 1971, chỉ thắng khít khao đối thủ Kim Dae Jung (54% / 46%). Một giai đoạn sôi động diễn ra sau đó khi Pak Chung Hee, dựa vào hậu thuẫn mà quần chúng dành cho ông ta, sửa đổi hiến pháp để tiếp tục nắm chính quyền. Dù bản hiến pháp mới đã được dân chúng Nam Cao Ly ủng hộ mạnh mẽ (73 % qua trưng cầu dân ý), trí thức và sinh viên đã tỏ ra sáng suốt và dũng cảm, họ nhìn thấy một âm mưu thiết lập chế độ độc tài mị dân và đã chống đối mãnh liệt. Chun Doo Hwan, cầm quyền sau khi Pak Chung Hee bị ám sát, đắc cử với 90% số phiếu của một “Đại Hội Quốc Dân Thống Nhất Đất Nước” năm 1982 đã chống trả hung bạo những tranh đấu của sinh viên trí thức, nhưng càng ngày cuộc đấu tranh càng được quần chúng hiểu và ủng hộ đưa tới những cuộc biểu tình khổng lồ. Chun Doo Hwan phải nhượng bộ và chấp nhận rút lui, tướng Roh Tae Woo (Lư Thái Ngu) chấp nhận trở lại cách bầu tổng thống theo phổ thông đầu phiếu và chỉ thắng cử với 36% trong cuộc bầu cử năm 1987 nhờ sự chia rẽ của đối lập dân chủ mà tổng số phiếu của hai ứng cử viên, Kim Dae Jung và Kim Yong Sam, cộng lại là 55%. Lực lượng dân chủ ngày càng mạnh lên, buộc đảng cầm quyền phải làm một thỏa hiệp kỳ lạ với đảng của cựu ứng cử viên tổng thống Kim Yong Sam (Kim Đồng Tam) theo đó hai đảng hợp nhất, với Kim Yong Sam làm chủ tịch và là ứng cử viên tổng thống. Năm 1992, Kim Yong Sam đắc cử tổng thống trong một cuộc bầu cử lương thiện. Cuối năm 1997 Kim Dae Jung đánh bại ứng cử viên đảng cầm quyền và đắc cử tổng thống.

Các cuộc bầu cử quốc hội cũng diễn ra một cách đều đặn và lương thiện từ 1963, trong đó đảng cầm quyền chưa bao giờ được đa số tuyệt đối.

Như vậy, Nam Cao Ly đã là một nước dân chủ từ thập niên 1960. Cho tới đầu thập niên 1990 đó chưa phải là một nền dân chủ hoàn hảo, nhưng vẫn là một nền dân chủ thực sự, một lần nữa nếu hiểu dân chủ là một chế độ bảo đảm tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Điều khác với Mã Lai là tại Nam Cao Ly các tướng lãnh cầm quyền đã chủ trương áp đặt chế độ độc tài và trí thức Nam Cao Ly đã phải tranh đấu cam go để đánh bại họ và bảo vệ dân chủ. Thật là sai khi nói rằng Nam Cao Ly đã phát triển mạnh mẽ trong hơn ba mươi năm dưới chế độ độc tài quân phiệt. Càng bất lương khi lấy trường hợp Nam Cao Ly để lập luận rằng có thể phát triển mà không cần có dân chủ. Không, Nam Cao Ly đã chỉ bắt đầu phát triển sau khi loại bỏ chế độ độc tài Syng Man Rhee, và từ đó đã tiến lên nhờ dân chủ và tự do. Sự thực là Nam Cao Ly đã vươn lên nhờ trí thức của nó đã sáng suốt và dũng cảm để bảo vệ dân chủ và do đó duy trì được đà phát triển. Không những không phải là một ngoại lệ, trường hợp Nam Cao Ly còn chứng tỏ phải dân chủ hóa mới có thể phát triển và dân chủ phải đi trước phát triển. Cũng đừng nên quên rằng điều nổi bật nhất và đáng chú ý nhất là Cao Ly đã bị chia cắt làm hai, miền Bắc (Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên) theo chế độ độc tài cộng sản trong khi miền Nam (Đại Hàn Dân Quốc) theo chế độ dân chủ tư bản, miền Nam tư bản đã trở thành một cường quốc trong khi miền Bắc suy sụp và đói nặng.

Thái Lan: mãi đến 1992

Thái Lan chỉ được biết tới như một con rồng hay con cọp tương lai trong vài năm trước cuộc khủng hoảng tài chánh châu Á khởi đầu từ tháng 7-1997 tại chính Bangkok. Thái Lan không phải là một mẫu mực thành công về kinh tế và vì thế về cơ bản không chứng minh điều gì rõ rệt. Điều đáng nói là Thái Lan đã phải thành công hơn.

Quốc gia này may mắn nhất Đông Nam Á, có lịch sử khá lâu đời và không bị ngoại thuộc, ngoại trừ thời gian ngắn ngủi bị Nhật chiếm đóng nhưng không gây đỗ vở. Thái Lan đã kháng cự một cách rất hình thức trong vòng vài giờ rồi đầu hàng và sau đó cũng chỉ bị Nhật chiếm đóng một cách hình thức cho đến khi Nhật đầu hàng. Thái Lan cũng may mắn có một hình thức dân chủ thật sớm, ngay từ 1932 khi một cuộc đảo chánh buộc vua Thái chấp nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhường thực quyền cho một chính phủ xuất phát từ một quốc hội do dân bầu.

Với sự chuyển hóa mau chóng và bình ổn lâu dài như vậy đáng lẽ Thái Lan phải là nước phát triển bậc nhất châu Á, nhất là Thái Lan có đất rộng, vị trí khá thuận lợi và tài nguyên khá phong phú. Nhưng sự thực đã không diễn ra như vậy, vì có bề ngoài nhưng cũng còn có bề trong. Mà bề trong là gì?

Đó là các tập đoàn tướng lãnh đã thay nhau cầm quyền dưới một chế độ dân chủ trong hình thức nhưng độc tài quân phiệt trong nội dung. Lịch sử cận đại của Thái Lan có thể tóm tắt như thế này: khi một nhóm tướng lãnh cảm thấy đủ sức mạnh, họ đảo chính lật đổ đám tướng lãnh đang cầm quyền và nhóm tướng lãnh bị hất cẳng quay ra làm thương mại hoặc cạo đầu đi tu chờ cơ hội trở lại cầm quyền. Nhưng cuộc đảo chánh không đổ máu kế tiếp nhau trước sự dửng dưng thụ động của quần chúng. Tình trạng này đã chỉ thật sự chấm dứt tháng 9- 1992, khi lập đoàn quân phiệt phải nhượng bộ, sau khi đã đàn áp đẫm máu mà không dẹp được, những cuộc xuống đường rầm rộ đòi dân chủ. Chế độ độc tài quân phiệt Thái Lan đã kéo dài suốt sáu mươi năm bởi vì nó dựa trên một liên minh rất vững chắc giữa quân phiệt, tài phiệt và nhà vua, nghĩa là một liên minh vừa có bạo lực, vừa có tiền lại vừa có tính chính đáng do lịch sử và truyền thống. Chưa kể là nó còn có một đồng minh gián tiếp là Phật Giáo Tiểu Thừa, một tôn giáo nhẫn nhục và thụ động.

Nếu trường hợp Thái Lan có chứng minh điều gì thì đó là dân chủ không do phát triển kinh tế mang lại. Trong suốt thời gian sáu mươi năm, mặc dù mức độ tăng trưởng không cao nhưng sinh hoạt kinh tế xã hội cũng đã thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh giành dân chủ đã chỉ do sinh viên chủ động, mà sinh viên thì không thuộc một thành phần kinh tế nào, còn gia đình họ thì hầu hết thuộc thành phần quân phiệt hoặc tài phiệt, nghĩa là những thành phần được ưu đãi và đáng lẽ phải gắn bó với chế độ. Người ta không ghi nhận một cuộc đấu tranh có động cơ kinh tế nào trong suốt thời gian này. Các sinh viên đã chỉ xuống đường vì những lý tưởng tự do, dân chủ, nhân duyên do ảnh hưởng của văn hóa và truyền thông. Mọi cuộc biểu tình của sinh viên đều bị đàn áp thẳng tay, mỗi lần vài chục sinh viên thiệt mạng, trong khi những cuộc đảo chánh quân sự rất ít khi có người chết hay bị thương. Mùa Xuân 1992, sau một cuộc bầu cử gian dối, lực lượng sinh viên xuống đường đã mạnh gấp bội nhưng lần trước, không phải vì cơ cấu kinh tế đã thay đổi mà vì sự sụp đổ của bức tường Bá Linh và khối cộng sản đã đẩy thế giới vào kỷ nguyên dân chủ. Khí thế đấu tranh cho dân chủ đạt một cường độ chưa từng có, trong khi tập đoàn quân phiệt Thái vừa lung lay như mọi tập đoàn độc tài trên thế giới, vừa mất lý cớ cầm quyền để chống nguy cơ cộng sản. Chế độ quân phiệt Thái cáo chung.

Về mặt kinh tế, Thái Lan đã chỉ phát triển chậm chạp cho tới giữa thập niên 1960, sau đó Thái Lan, nhờ vị trí hậu cần cho đoàn quân Hoa Kỳ tại Việt nam, đã nhận được một khoản viện trợ lớn và kinh tế đã có phần khởi sắc, tuy vậy Thái Lan cũng vẫn còn thua xa nước láng giềng Mã Lai. Phải chờ đợi đến sau 1992 khi chế độ quân phiệt chấm dứt, kinh tế Thái Lan mới thực sự cất cánh. Từ đó trở đi người ta mới bắt đầu nói tới Thái Lan như con rồng mới. Cuộc khủng hoảng tài chánh ập tới, đưa Thái Lan trở lại với một tham vọng khiêm nhường hơn. Mùa hè 1998, đúng một năm sau cuộc khủng hoảng, tôi có dịp trở lại thăm viếng Thái Lan và nhận xét một cách rất khác với nhiều người. Tôi thấy đó là một quốc gia dân chủ, với sinh hoạt kinh tế đang được lành mạnh hóa và một tâm lý kinh doanh rất rõ rệt. Trái với nhiều người, tôi lạc quan cho Thái Lan sau này hơn là trước mùa hè 1997.

Điều cần chú ý là Thái Lan đã phát triển mạnh sau khi dân chủ hóa, và từ đó không còn những xung đột đẫm máu như trước nữa. Trường hợp Thái Lan như vậy cũng không phải là một ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và kéo theo phát triển. Hơn nữa nó còn bẻ gãy một lý cớ quen thuộc của các tập đoàn độc tài là dân chủ đưa tới hỗn loạn. Chính dân chủ đã tránh cho Thái Lan một thảm kịch. Thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra vào mùa hè năm 1997, khi một cách rất đột ngột kinh tế gần như sụp đổ hoàn toàn, nếu chế độ vẫn là độc tài quân phiệt? Chắc chắn sẽ có bạo loạn và đổ máu lớn.

Phi-líp-pin: sự bịp bợm của Marcos

Cho đến năm 152 1, khi Magellan, một nhà mạo hiểm người Tây Ban Nha đặt chân đến, Phi-líp-pin là một quan đảo không tên không tuổi với hơn 7.000 đảo và hàng trăm bộ lạc nhỏ. Quốc gia tân lập này đã hoàn toàn do người Tây Ban Nha tạo dựng ra, tên của nó cũng được đặt theo tên vị vua Tây Ban Nha đương thời. Như thế Phi-líp-pin đã được Tây phương hóa ngay từ thời thành lập. Trước đó không hề có một dấu tích đáng kể nào của nền văn minh châu Á, dù là Phật Giáo, Khổng Giáo, Hồi Giáo hay ấn Độ Giáo. Hiện nay tôn giáo chính của Phi-líp-pin là Công Giáo, do người Tây Ban Nha mang tới, với trên 80% dân chúng.

Tuy là một quốc gia rất mới, nhưng nhờ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, Phi-líp-pin lại là một trong những dân tộc có tinh thần quốc gia đầu tiên tại châu Á, trong khi Việt nam và Trung Quốc chỉ có tinh thần trung quân. Các phong trào đòi độc lập đã xuất hiện ngay từ thế kỷ 18 và được nuôi dưỡng bởi những tư tưởng của các nhà văn. Năm 1896, một phong trào dân tộc được ủng hộ rộng rãi đã tuyên bố độc lập. Hai năm sau Tây Ban Nha bối rối phải nhượng bộ trước áp lực của Hoa Kỳ sau khi bị đại bại trong một cuộc hải chiến và đã chấp nhận bán lại toàn bộ quần đảo Phi-líp-pin cho Hoa Kỳ với giá tượng trưng 20 triệu USD. Hoa Kỳ không có truyền thống thực dân và cũng không cần đất đai mà chỉ tìm kiếm các đầu cầu thương mại, nên đã lập tức chuẩn bị trả độc lập cho quốc gia tân lập này. Tuy vậy một nửa thế kỷ tiếp xúc với Hoa Kỳ vẫn không lay chuyển được ba thế kỷ rưỡi do Tây Ban Nha nhào nặn. Nền văn minh phương Tây mà Phi-líp-pin tiếp nhận vẫn là nền văn minh Tây Ban Nha với những nhược điểm của nó: thiếu tinh thần trách nhiệm và đối thoại, tập tính giáo điều và ưa bạo lực. Có thể nói Phi-líp-pin đã tiếp thu văn hóa phương Tây ở dạng kém nhất.

Tuy chỉ có một chế độ dân chủ xô bồ, Phi-líp-pin vẫn tiếp tục phát triển một cách tương đối khả quan – cần nhấn mạnh tĩnh từ “tương đối” – từ ngày được độc lập, năm 1946. Tình hình Phi-líp-pin đã xấu đi từ 1965 khi Ferdinand Marcos, với sự hỗ trợ của giai cấp giàu có, đã đắc cử tổng thống. Marcos đã khéo dùng mọi thủ đoạn mị dân như tô vẽ thành tích chống Nhật trong thế chiến II, tạo cho mình hình ảnh một anh hùng võ nghệ cao cường, dũng lược hơn người, có vợ từng là hoa hậu, để thu hút quần chúng. Để kéo dài vô hạn định thời gian tại chức thay vì hai nhiệm kỳ bốn năm như hiến pháp qui định, Marcos ban hành lệnh giới nghiêm năm 1971, rồi quân luật năm 1972. Những năm cuối trào của Marcos đã là những năm cực kỳ đen tối cho Phi-líp-pin: loạn quân Hồi Giáo, loạn quân cộng sản, cướp bóc, đàn áp, thủ tiêu và biểu tình bạo động v.v… trong một bối cảnh tham nhũng cực kỳ trắng trợn; kinh tế Phi-líp-pin hoàn toàn suy sụp và nợ nước ngoài chồng chất. Hoa Kỳ và các định chế tiền tệ quốc tế thấy không còn tiếp tục ủng hộ Marcos được nữa, các áp lực càng ngày càng tăng cao đòi Marcos từ chức, giới giàu có cũng cảm thấy quyền lợi của họ không còn đi đôi với chế độ Marcos nữa. Giọt nước làm tràn ly là cuộc ám sát lãnh tụ đối lập Benigno Aquino trên cửa chiếc máy bay đưa ông từ Mỹ về nước. Chống đối bùng lên dữ đội, buộc Marcos phải chấp nhận bầu cử lại quốc hội năm 1984 đúng hạn kỳ hiến định. Đối lập dân chủ tuy không giành được đa số nhưng đã thắng lớn tại Manilla. Đây là tiếng chuông báo hiểu ngày tàn của chế độ Marcos vì trước đó, những cuộc đầu phiếu và trưng cầu dân ý luôn luôn đem lại cho ông ta gần như toàn bộ số ghế trong quốc hội và những đa số 80%, 90%. Lúng túng trước áp lực trong nước cũng như ngoài nước, Marcos chơi bạo tổ chức bầu cử tổng thống năm 1986 trước hạn định một năm. Tính toán của Marcos là buộc đối lập phải tranh cử vào lúc chưa kịp chuẩn bị. Marcos đã có lý vì quả nhiên ông ta đã thắng bà quả phụ Cory Aquino trên 500.000 phiếu. Nhưng đối lập dân chủ đã dựa vào hậu thuẫn của trí thức và hỗ trợ quốc tế, nhất là của Hoa Kỳ, đã tự tuyên bố bừa là thắng cử và phủ nhận kết quả của cuộc bầu cử mà họ cho là gian lận, dù sau này các tài liệu chứng tỏ Marcos đã thực sự thắng cử. Quân đội và giới tài phiệt bỏ rơi Marcos, ông ta đào thoát khỏi Phi-líp-pin và chết trong cảnh lưu vong.

Từ đó dân chủ được tái lập, sinh hoạt chính trị và kinh tế dần dần trở lại bình thường, hòa bình cũng dần dần được vãn hòi. Từ đó Phi-líp-pin tiến những bước đều đặn và chắc chắn trên đường phát triển với một mức độ tăng trưởng rất khả quan, và may mắn hơn, không bị tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng châu Á mùa hè 1997. Nhiều nhà bình luận bắt đầu nói tới một “phép mầu Phi-líp-pin”. Những điều không may cho người Phi-líp-pin là họ đã không biết rút kinh nghiệm của bài học Marcos và vẫn duy trì chế độ tổng thống, một chế độ rất dễ đưa đến lạm quyền trong những nền dân chủ non trẻ. Sau hai nhiệm kỳ tổng thống bình thường, năm 1998 một tài tử kịch ảnh là Joseph Estrada đắc cử tổng thống và lợi dụng chức quyền để tham nhũng và ăn chơi trác táng, gây nhiều thiệt hại lớn về vật chất cũng như tinh thần cho Phi-líp-pin. Tuy nhiên dân chủ đã được thiết lập và người dân Phi-líp-pin nhiều lắm cũng chỉ phải chịu đựng viên tổng thống tồi này trong một nhiệm kỳ.

Nhưng gì đã xảy ra tại Phi-líp-pin chứng tỏ rõ rệt hai điểm:

Một là, trái ngược hẳn với luận điểm của Marcos, dân chủ đã không đem lại hỗn loạn, nó đem lại hòa bình và trật tự. Trái lại, chính chế độ độc tài đã đem đến hỗn loạn và suýt nữa đẩy Phi-líp-pin xuống vực thẳm.

Hai là, dân chủ đã đem lại phát triển và một lần nữa dân chủ đã đi trước phát triển.

Indonesia: sự ra đời vội vã của một nước lớn

Nước duy nhất có thể coi là độc tài trong khối ASEAN cho tới gần đây là Indonesia. Nhưng Indonesia cũng là nước lạc hậu nhất trong sáu nước thành viên kỳ cựu của khối ASEAN, với lợi tức bình quân trên mỗi đầu người là 800 USD mỗi năm. Cần lưu ý là con số bi đát này dầu sao cũng cao gấp ba lần lợi tức của người Việt nam.

Một nước độc tài quân phiệt rồi bị nghèo khó lạc hậu thì có gì đáng nói? Indonesia cùng lắm chỉ chứng minh một chế độ độc tài quân phiệt không đến nỗi tai hại bằng một chế độ cộng sản như tại Việt nam. Nếu có gì cần ghi chú, nhưng ngoài khuôn khổ của cuộc thảo luận ngắn này mà mục đích là tìm ra tương quan giữa dân chủ và phát triển, thì đó là thực ra chế độ quân phiệt tại Indonesia không đến nỗi độc tài như người ta tưởng.

Ngay trong thời gian bị Hòa Lan đô hộ, các đảng phái chính trị vẫn được phép thành lập và hoạt động nhưng họ quá yếu để có thể để dọa guồng máy cai trị của Hòa Lan. Sau thế chiến II, dưới chế độ Sukamo, các chính đảng còn gặp thời cơ thuận tiện hơn, đặc biệt đảng cộng sản phát triển mạnh nhất. Vào năm 1965, trước khi âm mưu đảo chánh thất bại và bị tiêu diệt, đảng cộng sản Indonesia đã có tới ba triệu đảng viên và hai mươi triệu đoàn viên. Từ năm 1965 trở đi quân đội khống chế chính trường Indonesia nhưng cũng không cấm đoán các đảng đối lập; báo chí vẫn còn được hưởng một mực độ độc lập tương đối.

Những khó khăn của Indonesia thực ra là những khó khăn của một quốc gia đang thành lập một cách vội vã, dựa trên bạo lực và bất chấp đồng thuận. Cho tới khi người Hòa Lan đến, vào thế kỷ 16, Indonesia hoàn toàn không có đặc tính nào của một quốc gia, mà là cả một thế giới phức tạp với khoảng 17.000 hòn đảo lớn nhỏ, trải rộng 5.000 km từ Đông sang Tây và 2.000 km từ Bắc xuống: Nam, với hàng trăm sắc dân và thổ ngữ. Vô số vương quốc không tên không tuổi được thành lập rồi bị tiêu diệt. Một cuộc kiểm kê không đầy đủ năm 1939 cho thấy trên quần đảo Indonesia còn có 269 vương quốc hoàn toàn độc lập với nhau. Ánh sáng leo lét của văn minh đã chỉ dừng lại tại hai hòn đảo Sumatra và Java; càng về phía Đông sự bán khai càng gia tăng. Mặc dầu đã tiến bộ khá nhiều nhờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, phần lớn các bộ lạc trên các đảo phía Đông vẫn còn ở trong tình trạng tiền sử, một số vẫn còn ăn thịt người, chiến tranh giữa các bộ lạc không cần một lý do nào cả vì là một tập quán. Việc thành lập nước Indonesia với lãnh thổ hiện nay trên thực tế chỉ là trao cho đảo Java trách nhiệm khai hóa các đảo miền Đông: Borneo, Irian Jaya, Sulawesi, v.v…, một trách nhiệm hoàn toàn vượt quá khả năng của đảo Java nghèo nàn và lạc hậu. Hoa Kỳ đã phản đối việc thành lập này và đều có lý. Đáng lẽ đã phải đặt các đảo này dưới quyền sở hữu của Liên Hiệp Quốc và sau đó Liên Hiệp Quốc ủy nhiệm cho các quốc gia tiên tiến và giàu mạnh khai phá. Với sự thành lập duy ý chí như vậy, đảo Java không có cách gì để giữ sự gắn bó giữa các đảo ngoại trừ quân lực, cho nên việc quân đội nắm chính quyền có thể coi như cái giá mà Indonesia đã phải trả cho tham vọng thành lập nhanh chóng một nước lớn. Điều đáng lưu ý là quân đội Indonesia do người Hòa Lan thành lập ra và chịu ảnh hưởng của tinh thần Hòa Lan, một tinh thần không quân phiệt chút nào, do đó quân đội Indonesia rất hợp hiến, họ không trực tiếp nắm chính quyền mà luôn đứng sau một chính quyền dân sự. Quân đội cũng tôn trọng chính quyền dân sự đó, chỉ can thiệp trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả là vẫn có một mức độ tự do dân chủ tương đối và quân đội một phần nào đó còn xuất hiện như một bảo đảm cho dân chủ trước những tham vọng chuyên chính của đảng cộng sản và của các lực lượng Hồi Giáo sau đó.

Nếu muốn nhận diện tương quan giữa dân chủ và phát triển thì có lẽ nên nhìn vào sự thay đổi nhanh chóng của đảo Java, trung tâm quyền lực của Indonesia. Nhờ một sinh hoạt ít nhiều dân chủ, hòn đảo bán khai này đã tới một mức độ phát triển khả quan, cao hơn cả Trung Quốc, một nước đi trước họ cả ngàn năm với tài nguyên và nhân lực hơn hẳn. Nếu không mang gánh nặng khai phá các đảo phía Đông chắc chắn đảo Java còn mở mang hơn nhiều. Indonesia, mặc dầu khởi hành rất sau Trung Quốc với những điều kiện khó khăn hơn nhiều, đã phát triển hơn Trung Quốc vì đã mở cửa tiếp nhận các giá trị tự do và dân chủ trong khi Trung Quốc đã chỉ chọn một thứ chế độ Khổng Giáo hiện đại hóa, nghĩa là cộng sản.

Tháng 5-1998, chế độ độc tài quân phiệt Suharto sụp đổ sau gần một năm chao đảo vì cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Một năm sau, một cuộc tổng tuyển cử đã đem lại thắng lợi cho các lực lượng đối lập dân chủ. Cuộc chuyển hóa về dân chủ của Indonesia sẽ không dễ đàng bởi vì tình hình Indonesia quá phức tạp và vì chính các lực lượng dân chủ cũng chưa đủ trưởng thành. Nhưng dù gặp khó khăn thế nào đi nữa, Indonesia cùng đã khá hơn trước và chắc chắn sẽ vươn lên, trừ trường hợp các thế lực quân phiệt một lần nữa phản công bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa.

Đài Loan: từ một chiến khu tới một quốc gia

Trường hợp duy nhất tại châu Á có vẻ như chứng minh rằng có thể phát triển mà không cần dân chủ là Đài Loan. Càn nhấn mạnh là có vẻ vì đó chỉ là một cái nhìn phiến diện.

Quả thực từ năm 1949, khi đám tàn quân của Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Đài Loan và thiết lập tại đó một quốc gia ly khai với Hoa Lục, Đài Loan đã chỉ có nhưng chính quyền xuất phát từ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Hai cha con Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc kế tiếp nhau làm tổng thống trong gần bốn mươi năm cho tới năm 1988. Quân luật được thi hành cho tới 1987. Mặc dầu vậy, kinh tế Đài Loan vẫn tiếp tục phát triển một cách mạnh mẽ và hiện nay Đài Loan đã trở thành một nước dân chủ với một sức sống gần tương đương với Tây Âu, với một nền kinh tế lành mạnh hơn hẳn: thất nghiệp hầu như không có, dự trữ ngoại tệ tính trên mỗi đầu người cao hơn hẳn mọi quốc gia trên thế giới.

Trường hợp Đài Loan đã được một số người viện dẫn để bảo vệ lập trường cho rằng có thể bỏ qua dân chủ, tập trung mọi sức lực xây dựng kinh tế rồi phát triển kinh tế sẽ đem đến dân chủ. Sự thực như thế nào?

Đảo Đài Loan cho tới thế kỷ thứ VIII gần như hoang vu, với một số ít thổ dân gốc Mã Lai (điều này cho thấy các sắc dân gốc Mã Lai từ ngàn xưa đã trải rộng khắp Đông á). Dần dần người di dân từ hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến đã khiến người gốc Hoa trở thành đa số, nhưng những người gốc Hoa này coi họ là người Đài Loan hơn là người Trung Hoa. Từ cuối thế kỷ 15 đảo này đã bị người Tây Ban Nha, rồi Hòa lan chiếm đóng và khai thác. Giữa thế kỷ 17, sau những đợt di dân lớn từ Hoa Lục, Đài Loan trở thành một vương quốc độc lập, rồi bị nhà Thanh chinh phục và sáp nhập thành một tỉnh của Trung Quốc.

Năm 1895, nhà Thanh thua trận phải nhường đảo này cho Nhật. Lưu Vĩnh Phúc, viên chủ tướng tài ba của quân Cờ Đen từng tận lực giúp Việt nam chống Pháp, đã cùng với tổng đốc Đài Loan Dương Tinh Tùng tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Đài Loan. Nước cộng hòa đầu tiên lại châu Á này đã bị quân Nhật đánh bật khỏi Đài Bắc trong vòng một tuần lễ, dù Lưu Vĩnh Phúc vẫn còn kháng cự tại miền Nam gần mười năm nữa. Sau thế chiến II, Đài Loan, với khoảng 10 triệu dân, được trao trả lại cho Trung Quốc.

Bước ngoặt lớn của Đài Loan xảy ra năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch bỏ lục địa đem gần hai triệu người gồm gia đình, đảng viên và quân đội Quốc Dân Đảng sang đây. Trong những thập niên đầu Đài Loan không phải là một quốc gia mà là một chiến khu. Lực lượng Quốc Dân Đảng di tản sang đây tự coi là một chính phủ Hoa Lục di tản, với đầy đủ quốc hội, chính phủ và quân đội; họ ván tiếp tục tự nhận là chính quyền của toàn thể Trung Quốc và chỉ coi Đài Loan là một tỉnh. Qui chế chiến khu là một thực tế. Chiến tranh vẫn tiếp tục xảy ra tại eo biển, cạnh các hòn đảo Kim Môn, Mã Tổ, Trần Thành: Bên ngoài thì Hạm đội 7 của Mỹ túc trực. Cần hiểu rõ tình trạng này khi nhận định về vấn đề dân chủ tại Đài Loan.

Dân chủ là một phương thức sinh hoạt quốc gia cho phép đạt tới một đồng thụân được chấp nhận giữa các khuynh hướng khác nhau dù không thỏa mãn mọi người. Nhưng tại Đài Loan vấn đề đồng thuận không đặt ra. Những người Quốc Dân Đảng sang đây hoàn toàn đồng ý với nhau trên hầu như tất cả và rất đoàn kết trong một mục tiêu chung là chống lại Hoa Lục, dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch mà họ coi là một lãnh tụ anh minh. Vấn đề dân chủ thực sự chỉ đặt ra vài thập niên sau đó, khi những người bản địa Đài Loan đã tiến lên về kinh tế và văn hóa, và đòi hỏi tổ chức Đài Loan như một quốc gia. Trong những thập niên đầu, đoàn người di tản từ Hoa Lục sang hơn hẳn dân bản địa về mọi mặt. Họ là tập hợp tinh nhuệ nhất của Trung Quốc, đồng thời họ cũng mang theo những tài sản rất lớn. Có thể nói vào năm 1949 đại bộ phận chất xám và tư bản Trung Quốc đã tản cư qua Đài Loan làm sinh hoạt kinh tế và mức sống Đài Loan gia tăng mau chóng, cải thiện một cách ngoạn mục mức sống của những người bản địa Đài Loan. Đối lập với Quốc Dân Đảng trên đảo Đài Loan cũng không có vì các thành phần cộng sản đã bị tiêu diệt hoàn toàn một năm trước cuộc di tản, vào năm 1948, khi các cuộc bạo động xuống đường bị đàn áp trong một biển máu, với hơn mười ngàn người bị hành quyết trong vài ngày, phần đông là đảng viên cộng sản.

Sự sáng suốt của chính quyền Quốc Dân Đảng là đã hiểu ngay rằng họ sẽ phải biến Đài Loan thành một quốc gia thật sự. Họ đã nỗ lực nâng cao mức sống và trình độ văn hóa người địa phương, mà đại đa số có gốc Trung Hoa, để hội nhập người địa phương vào sinh hoạt chính trị. Mức sống và trình độ văn hóa càng tiến triển họ càng nới rộng tự do và dân chủ, và luôn luôn đi trước yêu cầu. Trường hợp Đài Loan về thực chất là một cố gắng xây dựng một quốc gia và một chế độ dân chủ từ một chiến khu. Điều mà thế giới đang chứng kiến là sự ra đời của một quốc gia thật sự tại Đài Loan.

Thất bại mau chóng của Quốc Dân Đảng tại Hoa Lục cũng như hào quang của chế độ cộng sản và lãnh tụ Mao Trạch Đông sau đó đã khiến dư luận thế giới miệt thị tập đoàn Tưởng Giới Thạch như một tập đoàn bất lực và tham nhũng, nhưng ngày nay chúng ta đã có bước lùi cần thiết để nhìn lại lịch sử cận đại Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch và bộ tham mưu của ông không tồi dở như người ta tưởng. Chính di sản Trung Quốc do nhà Thanh để lại mới là tồi tàn. Kinh tế lụn bại, đất nước phân tán dưới những sứ quân tham tàn và xâu xé nhau. Tưởng Giới Thạch đã phải có bản lãnh lắm mới thống nhất được Trung Quốc, nhưng ông đã thất bại trước Mao Trạch Đông vì thử thách mà chính quyền của ông tự đặt cho mình quá lớn: đó là xây dựng một Trung Quốc theo mô hình dân chủ phương Tây, điều mà người Trung Quốc không hiểu và do đó không chia sẻ. Cuộc tương tranh quốc – cộng tại Trung Quốc cũng như tại Việt nam chủ yếu là một cuộc xung đột giữa hai mô hình xã hội được đề nghị để thay thế ý thức hệ Nho Giáo đã lỗi thời và sụp đổ. Một bên là mô hình dân chủ kiểu phương Tây và một bên là mô hình cộng sản. Về bản chất, chủ nghĩa cộng sản là một thứ Khổng Giáo cải tiến khá gần gũi với xã hội Nho Giáo: cũng đặt nền tảng trên một chủ nghĩa nửa chính trị nửa tôn giáo, cũng giáo điều độc tôn, cũng tập trung tuyệt đối, cũng khống chế tư tưởng, cũng bóp nghẹt xã hội dân sự và đè bẹp cá nhân, cũng cấm đoán thương mại và sự giàu có, nhưng quan tâm tới quần chúng hơn và có tổ chức tinh vi hơn. Chính vì thế mà chủ nghĩa cộng sản dễ hiểu đối với người dân các nước thuộc văn hóa Khổng Giáo và đã được ủng hộ. Ngược lại mô hình dân chủ phương Tây đòi hỏi một đoạn tuyệt văn hóa quá lớn nên đã không được hưởng ứng. Tưởng Giới Thạch đã thua vì xã hội Trung Hoa sau hơn hai ngàn năm Nho Giáo chưa chín muồi cho thay đổi, chứ không phải vì ông ta kém Mao Trạch Đông. Giờ này chắc không còn ai ngờ vực là nếu Tưởng Giới Thạch thắng, thay vì Mao Trạch Đông, thì Trung Quốc đã khá hơn rất nhiều so với hiện nay.

Không thực hiện được cuộc canh tân theo mô hình phương Tây trên đất nước Trung Quốc bao la và phân rã, phe Quốc Dân Đảng đã thực hiện nó trên khuôn khổ hạn hẹp của Đài Loan và họ đã thành công. Điều cần chú ý là tại Đài Loan chính quyền Quốc Dân Đảng đã luôn luôn chủ động, nới rộng tự do một bước trước khi những thay đổi về kinh tế xã hội đòi hỏi. Chính vì vậy mà Đài Loan đã ổn vững và liên tục tiến lên. Ngay từ 1969, chính quyền Quốc Dân Đảng đã tổ chức những cuộc bầu cử bổ túc các dân biểu địa phương vào quốc hội, các quyền tự do phát biểu và hội họp đã được thừa nhận. Năm 1986, các chính đảng được phép thành lập và tranh cử. Năm 1987, quân luật được bãi bỏ hẳn. Từ 1991 mọi đạo luật của thời kỳ quân luật đều được bãi bỏ, Đài Loan trở thành một nước dân chủ thật sự, và cũng là nước dân chủ nhất châu Á, ngoại trừ Nhật Bản. Đa số những cấp lãnh đạo tối cao của Đài Loan hiện nay là người địa phương. Sự thành công của Quốc Dân Đảng chính là ở chỗ họ đã biết thăng tiến người địa phương và sau đó tự hội nhập vào với người địa phương. Trong cuộc bầu cử quốc hội hoàn toàn tự do và lương thiện năm 1998 họ đã thắng lớn. Họ đã thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 vì chia rẽ chứ không phải vì không được cử tri tín nhiệm.

Trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á bắt đầu từ mùa hè 1997, Đài Loan đã là nước ít bị thiệt hại nhất, bởi vì nó là quốc gia dân chủ và lành mạnh nhất trong những nước vừa vươn lên.

Không, Đài Loan không phải là một ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển. Đó chỉ là quốc gia ra đời trong một trường hợp đặc biệt.

Châu Mỹ La Tinh: một thế kỷ rưỡi trong bóng đêm

Vòng du lịch vội vã một số nước châu Á trên đây đã chứng minh, nếu cần phải lặp lại một lần nữa, là dân chủ, tự do và nhân quyền không hề đưa đến hỗn loạn mà trái lại còn đem tới hòa bình và ổn vững, không hề cản trở mà còn tạo ra và thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì vấn đề chủ yếu của chúng ta là nhận diện liên hệ mật thiết giữa dân chủ và phát triển nên có lẽ chúng ta sẽ còn thiếu sót nếu không nhìn qua, dù chỉ là một cách sơ lược các nước châu Mỹ La Tinh.

Các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên này đã được độc lập từ đầu thế kỷ 19, nghĩa là gần hai thế kỷ nay, nhưng trong hơn một thế kỷ rưỡi đã quằn quại trong nghèo khó và bạo loạn. Vì sao? Đó là vì ngay từ khi được độc lập, họ đã phải chịu dựng những chế độ độc tài với những người hùng oai phong lẫm liệt, tài ba xuất sắc, ngự trị trong hàng mấy chục năm. Người hùng nào cuối cùng cũng đã có công lớn là làm cho đất nước kiệt quệ và phân rã. Các nước châu Mỹ La Tinh đã chỉ vươn lên bắt đầu từ thập niên 1980 khi dứt khoát chuyển hóa về dân chủ. Một lần nữa qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển được ứng nghiệm.

Một ngoại lệ: nước Chile. Nhưng đây không phải là ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển mà lại là ngoại lệ của châu Mỹ La Tinh. Chile đã là nước châu Mỹ La Tinh duy nhất chọn con đường dân chủ rất sớm. Và, trùng hợp làm sao, Chile cũng là nước phát triển hơn hẳn mọi nước châu Mỹ La Tinh khác.

Trong cuộc lược duyệt này chúng ta đã bỏ qua bốn nước châu Á: Miến Điện, Lào, Kampuchea và Việt nam. Có gì cần nhận định về trường hợp bốn nước này? Có, và có hai điều mà không ai có thể chối cãi: một là cả bốn nước này đều đã phải chịu đựng từ lâu các chế độ độc tài đồng thời cả bốn đều là những nước nghèo khó và tụt hậu nhất trong vùng; hai là, cả bốn nước đều đa đạt được một số tiến bộ trong nhưng năm gần đây sau khi đã chấp nhận nới rộng một phần nào tự do.

Chú thích thêm về trường hợp Chile

Vào lúc tôi đang viết những dòng này, thế giới đang sôi nổi vì cựu tổng thống Chile Augusto Pinochet bị giữ lại tại Anh và có thể bị dẫn độ sang Tây Ban Nha để bị xét xử về tội ác đối với loài người. Các thủ tục kéo dài và sau cùng Pinochet được phép về nước vì đã già yếu.

Chế độ Pinochet khiến người ta dễ đồng hóa Chile với chế độ độc tài. Thực ra Pinochet chỉ là một ngoặc đơn ngắn trong lịch sử Chile. Chile đã có một chế độ dân chủ lưỡng đảng ngay từ năm 1823. Sau đó thỉnh thoảng vẫn có những người hùng thiết lập những chế độ độc tài nhưng dân chủ vẩn được mau chóng vãn hồi. Chile cũng là một nước có hiến pháp ổn định. Hiến pháp năm 1823 được áp dụng tới 1925, và sau 1925 một hiến pháp dân chủ khác được ban hành và kéo dài tới 1973. Năm 1969, một người cộng sản, ông Salvađor Allenđe, đắc cử tổng thống một cách khó khăn. Bản tính cực đoan và nóng nảy, Salvador Allende đã muốn mau chóng biến Chile thành một nước cộng sản và tỏ ra chống Mỹ kịch liệt. Trong một thời gian ngắn, kinh tế Chile hoàn toàn suy sụp, các công ty ngoại quốc rút ra hoặc chuẩn bị rút ra. Bất mãn tăng cao, dân chúng xuống đường biểu tình phản đối liên tục. Allende còn làm một phiêu lưu nguy hiểm khác là thành lập các đoàn võ trang riêng của mình. Cơ quan lình báo Mỹ, CIA, một mặt ráo riết thúc đẩy chính phủ Mỹ và các công ty Mỹ tẩy chay Chile, mặt khác xúi giục quân đội và các đảng cánh hữu lật đổ Allende. Năm 1973, quốc hội Chile, định chế đã chung quyết bầu ra Allende sau khi cuộc bầu cử tổng thống qua phổ thông đầu phiếu không đem lại kết quả ngã ngũ biểu quyết coi Allende không còn là tổng thống hợp pháp nữa. Quân đội, dưới quyền tướng Pinochet, coi quyết định này như một lệnh truất phế và tiến đánh dinh tổng thống, Allende bị giết chết. Về mặt thuần túy pháp lý, cuộc đảo chánh của Pinochet không phải hoàn toàn phi pháp. Pinochet chỉ trở thành bất hợp pháp sau khi ông ta nắm được chính quyền, giải tán quốc hội và thi hành chính sách khủng bố. Pinochet đã lãnh đạo Chile với bàn tay sắt, đàn áp thô bạo các phần tử cộng sản và thân cộng, thủ tiêu hơn 3.000 người. Nhưng chính Pinochet cũng chuẩn bị để vãn hồi dần dần dân chủ. Năm 1988, sau một cuộc trưng cầu dân ý trong đó ông thất bại, Pinochet nhường quyền cho một chính quyền dân sự, nhưng vẫn giữ quân đội và đã chỉ chấp nhận từ bỏ quân đội sau khi đã đòi được làm thượng nghị sĩ suốt đời để hưởng qui chế bất khả xâm phạm.

Chế độ độc tài của Pinochet kéo dài tổng cộng 17 năm, tuy nhiên trong mười năm về sau các đảng không cộng sản vẫn được tự do hoạt động. Trong lịch sử gần hai trăm năm của nền dân chủ Chile khoảng thời gian độc tài của Pinochet tương đối ngắn. Việc Pinochet bị dư luận thế giới và đa số nhân dân Chile lên án là bằng chứng rằng nhân loại đã văn minh hơn. Nếu cứu cánh có thể biện minh cho phương tiện thì chắc chắn Pinochet không thể bị lên án. Ông ta đã sử dụng những biện pháp bạo ngược nhưng đã đạt được cứu cánh tốt đẹp là ngăn chặn âm mưu thiết lập một chế dộ chuyên chính, ổn định được xã hội, phát triển được đất nước và sau cùng xây dựng được dân chủ. Nhưng ngày nay dân chủ đã đủ trưởng thành để kết án cả những kẻ đã phục vụ nó bằng nhưng biện pháp thô bạo. Những tập đoàn độc tài không bằng Pinochet, nghĩa là không những đã thô bạo mà còn làm cho đất nước kiệt quệ đi, càng đáng bị lên án một cách quả quyết hơn.