“Thằng nào đây?…”

Đầu năm 1974, tôi đang làm chuyên viên tại Ngân Hàng Việt nam Thương Tín. Một đồng nghiệp ở phòng bên xông vào phòng tôi, với nét mặt lầm lì, ném một tài liệu xuống ngay trước mặt tôi và nói một cách sừng sộ:

– Đọc đi!

Tôi tưởng có chuyện gì nghiêm trọng nên đọc ngay trong khi anh bạn đứng đợi. Nhưng không, đó là một bài lăng nhăng, không tập trung vào một đề tài nào cả và cũng chẳng ra câu cú gì cả. Rất nhiều thì, mà, là, tại, v.v… nhưng rất ít ý và văn phạm. Tôi càng đọc càng bực bội. Trong câu cuối cùng mà tôi đọc, tác giả chê sự câu nệ bằng cấp bằng một câu: “Thấy thằng nhỏ nó làm việc được thì lại không cho nó làm, bắt nó có bằng tú tài mà nó có bằng tú tài rồi thì nó có làm giỏi không?”. Đến đây sức chịu đựng của tôi đã vượt quá giới hạn, tôi giận dữ hỏi gằn:

– Thằng nào đây? Bớp tai cho nó mấy cái!

Anh bạn phá ra cười:

– Tổng thống đấy!

Thì ra đó là một bài nói chuyện của ông Nguyễn Văn Thiệu, trong một buổi hội nghị công chức cao cấp. Tổng thống ăn nói như vậy thì cán bộ học hỏi được cái gì? Điều bi đát là ông Thiệu không phải là người ăn nói dở so với những cấp lãnh đạo Việt nam khác. Nhưng bài nói chuyện của ông nếu chép lại thì thấy là chẳng ra đâu vào đâu cả nhưng nếu nghe ông nói trực tiếp cũng có thể hiểu ông định nói gì, đó là điều ít khi xảy ra đối với những người lãnh đạo chính quyền, chính đảng hay hiệp hội khác, nhưng người trên nguyên tắc phải có khả năng truyền thông cao. Tôi đã nghe khá nhiều bài thuyết trình, đọc nhiều bài báo mà chẳng hiểu tác giả định nói cái gì. Các tác giả sắp xếp lộn xộn thứ tự của các ý kiến (khi họ có ý kiến, một điều tương đối hiếm), ôm đồm quá nhiều ý trong một câu dùng từ ngữ sai và bất chấp văn phạm. Đã thế khả năng tiếp thu của thính giả hay độc giả còn kém hơn họ (vì ít ra họ còn dám nói và dám viết). Kết quả của sự trao đỗi không có gì khó dự đoán. Điều ai cũng có thể nhận thấy trong những buổi hội thảo của người Việt nam là cử tọa chờ cho diễn giả nói xong, đến phần “quí vị nào có câu hỏi…” một vài người xin phát biểu để nói (rất dài) ý kiến đã soạn sẵn của mình, dù không hên hệ gì tới những điều diễn giả vừa nói.

Phần dẫn nhập dài dòng này là để cảnh giác về một thiếu sót trầm trọng, bi đát, kinh khủng của người Việt: chúng ta không biết truyền thông. Chúng ta viết cẩu thả, nói lộn xộn, đọc sơ qua, nghe lõm bom, cho nên chúng ta không hiểu được nhau, rồi cãi cọ với nhau, thù nhau, đánh phá nhau, và giết nhau. Người Việt nam không ý thức được hai điều tối quan trọng. Điều thứ nhất liên quan đến cá nhân: khả năng truyền thông là khả năng quan trọng nhất trong mọi khả năng của một con người để thành công. Điều thứ hai liên quan đến xã hội: một khả năng truyền thông tối thiểu là yếu tố không thể thiếu cho hòa bình giữa những con người.

Cách đây hơn mười năm, lúc đó tôi làm việc cho một công ty dịch vụ tin học, tôi được nha thương mại thông báo là một công ty dịch vụ chứng khoán lớn đang cần một số kỹ sư tin học để thực hiện một dự án tin học lớn. Việc đầu tiên là phải tìm một kỹ sư dự án trưởng, biết rành các kỹ thuật tin học sử dụng trong dự án và am tường các nghiệp vụ chứng khoán.

Chỉ có một kỹ sư đáp ứng hai đòi hỏi đó. Anh ta tốt nghiệp một trường kỹ sư khá danh tiếng, có mười năm kinh nghiệm trong ngành tin học, thông thạo các kỹ thuật tin học sử dụng trong dự án và lại đã từng tham gia vào việc thực hiện một dự án lớn về chứng khoán kéo dài hơn một năm. Quả là một con người lý tưởng cho hoàn cảnh, một con chim lạ, như người Pháp nói “un oiseau rare”. Anh giám đốc thương mại phấn khởi vô cùng: “May quá, thế thì thắng lợi chắc chắn rồi!”. Nhưng tôi không chắc chắn như anh ta bởi vì tôi nhìn thấy một mối nguy lớn mà anh ta không biết: anh kỹ sư đó là người Việt nam, và kinh nghiệm đã dạy cho tôi rằng người Việt truyền thông một cách rất luộm thuộm. Tôi lại không biết rõ anh kỹ sư này vì anh thuộc một công ty nhỏ mà chúng tôi vừa mới sát nhập nên tôi không theo dõi anh trong dịp tuyển dụng. Từ ngày anh ấy hết công tác và về đây chờ đợi công tác khác, tôi cũng bận rộn chỉ chào hỏi và nói chuyện qua loa.

Mối lo của tôi được kiểm chứng hoàn toàn. Tôi mời anh lên, hỏi anh về dự án chứng khoán mà anh ta đã làm qua. Một sự im lặng nặng nề và tuyệt đối kéo dài gần mười phút. Tôi bối rối và hoảng hốt vì chính sự im lặng đó. Anh không có gì để nói cả! Vì hai lý do.

Lý do thứ nhất, anh ta không hiểu rõ dự án đã làm và không nhớ. Người Việt nam mình có một khả năng kỳ dị là có thể làm rất lâu trong một công việc mà mình không thích và không hiểu. Cái gì cấm anh nếu không thích ngành chứng khoán thì bỏ đi làm một việc khác? Với bằng cấp của mình, anh có thể tìm việc khác một cách dễ dàng. Người Việt nam kiên nhẫn và cần cù, điều đó đúng, nhưng sự càn cù đó lại thường đi đôi với sự thụ động.

Lý do thứ hai, anh hoàn toàn không biết diễn đạt như phần lớn người Việt nam khác. Dù có hiểu và nhớ, anh cũng không thể trình bày được. Tôi phải khuyến khích, hối thúc, đặt những câu hỏi ngắn, nói chung phải cạy mồm anh ra, mới được một số câu trả lời vụn vặt, nghèo nàn. Chỉ sang phần kỹ thuật trong tin học là thấy anh ta có vẻ thoải mái, mặc dầu cũng không lấy gì làm xuất sắc, bởi vì tuy anh ta biết nhiều nhưng lại không trình bày được một cách mạch lạc.

Cuối cùng tôi kết luận rằng anh không phù hợp với công tác, vì đây là một công tác đòi hỏi khả năng lãnh đạo, thì anh ta phản đối. Anh ta nói anh ta là kỹ sư, có mười năm kinh nghiệm thì dĩ nhiên anh xứng đáng giữ một vai trò quan trọng, nhiều người không có bằng cấp bằng anh ta mà chỉ năm năm đã có thể làm dự án trưởng. Tôi cố gắng giải thích rằng bằng cấp và thời gian kinh nghiệm của anh khá vững, nhưng công tác này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận về nghiệp vụ chứng khoán và một khả năng truyền thông rất cao vì phải tiếp xúc với rất nhiều người, tham dự và điều khiển nhiều phiên họp. Tôi cũng khuyến khích anh ta nên chú ý tới nội dung của các dự án hơn là khía cạnh kỹ thuật, và nhất là nên cải tiến khả năng ăn nói. Anh vẫn khăng khăng biện luận rằng đã có bằng cấp ấy và thời gian kinh nghiệm ấy là đương nhiên anh ta phải phù hợp với công tác. về sau chúng tôi không làm việc với nhau nữa. Một lần một người quen thuật lại cho tôi nghe anh ấy nói tôi là người “không tử tế với người Việt”.

Một giám đốc của một công ty khách hàng biết rõ tôi vì là bạn học cùng lớp một lần gọi điện thoại cho hãng tôi mm job trong nha điện toán của anh. Nhưng anh ta lại nói thêm: “Nhưng mày đừng gởi cho tao một đồng hương của mày nghe? Người Việt của mày giỏi về kỹ thuật nhưng về truyền thông thì lại dở quá, mà job này đòi hỏi rất nhiều liên lạc”.

Tại sao chúng ta dở về truyền thông như vậy? Bởi vì con người Việt nam không được giáo dục về truyền thông, mà hơn thế nữa lại được khuyến khích để đừng biết truyền thông. Xã hội ta là một phân chia đẳng cấp, trên nói dưới nghe, không có trao đỗi. Liên hệ trong xã hội ta là một tương quan lực lượng chứ không phải là một liên hệ trao đỗi. Khả năng truyền thông bị coi là một tật xấu cần phải bỏ. Đứa trẻ hay nói bị mắng là lắm mồm, thiếu hạnh kiểm. Cấp dưới dám bàn cãi về quyết định của cấp trên bị coi là cứng đầu và bị trù dập.

Cách truyền đạt tư tưởng trực tiếp và sáng sủa bị coi là tầm thường, không sâu sắc. Khi Trịnh Kiềm hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm là có nên bỏ vua Lê để lên làm vua hay không thì Nguyễn Bỉnh Khiêm nói bóng nói gió: “Năm nay mất mùa nên đem hạt giống cũ gieo lại thì hơn”. Cũng thế, khi Nguyễn Hoàng lâm nguy tới van kế Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm thay vì khuyên Nguyễn Hoàng nên vào Nam lập nghiệp lại cũng nói bóng gió: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”. Cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là hay, là thâm thuý.

Cái vòng luẩn quẩn là chúng ta truyền thông rất dở, rồi vì không chịu nhìn nhận nhược điểm của mình chúng ta đồng ý coi truyền thông là xấu. Kết quả là chúng ta không hiểu nhau. Trong trường hợp tốt nhất, mạnh ai nấy làm theo ý mình, công việc chung mâu thuẫn và thiếu gắn bó. Trong trường hợp tệ nhất, chúng ta gán cho nhau những ý đồ đen tối, rồi xung khắc và thù địch nhau. Tôi đã chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn cuộc cãi vã gay go trong đó thực ra người ta đồng ý với nhau, nhưng chống đối nhau kịch liệt chỉ vì không hiểu nhau, người nói đã nói dở người nghe lại không chịu nghe.

Và tôi cũng tin rằng nếu người Việt biết truyền thông, nghĩa là biết diễn đạt và biết nghe nhau, họ đã khám phá ra rằng người trước mặt mình cũng có những lý tưởng và mục tiêu gần giống mình và đã không giết nhau trong suốt ba mươi năm sau thế chiến thứ hai.