Chương 4

Tối hôm ấy, Scarlett thay thế mẹ chủ tọa bữa ăn, nhưng đầu óc nàng cứ rối cuồng vì cái tin kinh khủng về Ashley và Melanie. Tuyệt vọng, nàng mong mẹ trở về từ nhà Slattery bởi vì, nếu không có bà, nàng cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Bọn Slattery với những chứng bịnh không ngớt của chúng có quyền gì đem Ellen ra khỏi nhà, trong khi nàng Scarlett, cần bà biết bao?

Suốt bữa ăn buồn bã ấy, giọng nói oang oang của Gerald cứ đập mạnh vào tai khiến Scarlett tưởng rằng không thể nào chịu đựng được nữa. Gerald đã hoàn toàn quên hẳn câu chuyện hồi chiều và không ngớt độc thoại về những tin tức giờ chót đối với căn cứ Sumter, nhấn mạnh bằng cách đấm lên bàn và khoa nắm tay tứ tung. Thói quen của ông trong bữa ăn là điều khiển những câu chuyện, và thường thường, Scarlett bận rộn với những ý nghĩ riêng, chỉ nghe một cách ơ hờ. Nhưng tối nay, Scarlett không thể nào không để lọt vào tai giọng nói của cha, dù nàng hết sức vểnh tai lắng đợi tiếng bánh xe ngựa báo hiệu mẹ về.

Dĩ nhiên, nàng không có ý kể cho mẹ nghe tâm sự thảm não của mình, vì Ellen sẽ bất bình và phiền muộn khi nghe con gái bà đi yêu một người đàn ông đã đính hôn với một thiếu nữ khác. Nhưng lần đầu tiên trong đời gặp phải một chuyện bi thương, nàng muốn tìm an ủi nơi mẹ. Nàng thường cảm thấy an toàn hơn khi được gần bên Ellen, vì mẹ nàng luôn luôn biến được những cảnh ngộ khó khăn trở nên tốt đẹp, chỉ bằng sự hiện diện của bà.

Nàng đứng bật lên khi nghe tiếng bánh xe lọc cọc ngoài đường và rồi lại ngồi xuống khi tiếng xe chạy vòng quanh để ra nhà sau. Chắc không phải Ellen, vì nếu là bà, thì Ellen đã xuống xe ngay thềm trước. Kế đó, có tiếng bập bẹ và tiếng cười ầm ĩ của bọn da đen vang lên ở sân sau. Qua cửa sổ, Scarlett trông thấy Pork, vừa từ trong nhà bước ra, tay cầm một bó đuốc nhựa thông cháy lập loè và một vài người không rõ mặt đang bước xuống một cổ xe chở hàng. Trong đêm tối vang lên tiếng xì xào, tiếng cười ồm ồm, những âm thanh vui vẻ quen thuộc, vô tư lự, những âm thanh trong cổ họng trầm bổng như âm nhạc. Kế đó có tiếng chân kéo lê trên bậc thềm trước, vào lối đi dẫn đến nhà chánh rồi dừng lại trong đại sảnh, ngay trước cửa phòng ăn. Có tiếng thì thầm một lúc và Pork bước vào, mất hẳn dáng điệu nghiêm chỉnh hàng ngày, mắt tròn xoe và răng trắng xoá. Hắn thở hổn hển báo tin với vẻ kiêu hãnh của một tân lang.

− Thưa ông Gerald, người đàn bà mới của ông đã tới rồi.

Gerald giả bộ giận dữ:

− Đàn bà mới nào, tao chẳng có mua đứa đàn bà mới nào cả!

− Dạ thưa ông, có mà, thưa ông Gerald! Vâng, nó đang đứng ngoài kia, nó muốn thưa chuyện với ông.

Pork vừa trả lời, vừa vặn tay lo lắng.

− Thôi được, cho tân nương vào.

Pork quay lại, ngoắc vợ hắn vào. Đó là người đàn bà mới từ đồn điền nhà Wilkes và sẽ trở thành gia nhân của Tara. Vợ hắn bước vào, sau lưng là một đứa bé gái mười hai tuổi bị che khuất bởi cái váy rộng bằng vải chúc bâu, đang bám lấy chân mẹ.

Dilcey, người cao lớn, thân hình luôn luôn thẳng đứng. Căn cứ vào nét mặt, người ta có thể gán cho mụ giữa ba mươi tới sáu mươi, vì đó là một bộ mặt ít nếp nhăn và bất động như đồng. Ở mụ, dòng máu người da đỏ ấn lát những đặc điểm của người da đen. Trên mặt mụ người ta nhận thấy có sự pha trộn của hai chủng tộc với màu da đỏ, vầng trán cao nhưng hẹp, lưỡng quyền nhô cao, mũi quặm như mỏ chim ưng nhưng lại hẹp ở chóp và vành môi cộm của người da đen. Đó là một mẫu người tự chủ với dáng đi đĩnh đạc còn vượt hơn cả Mammy, bởi vì Mammy đã phải tự luyện còn với Dilcey thì những cái đó thuộc về bẩm sinh.

Tiếng nói của mụ không quá lắp bắp như phần đông dân hắc chủng, đã vậy mụ còn biết chọn từng lời:

− Kính chào quí vị tiểu thơ, kính chào ông Ge’ald, tôi ‘ất buồn phải làm phiền quí vị, nhưng tôi muốn vào đây để cám ơn quí vị đã mua tôi và đứa con tôi. Có nhiều vị có thể chỉ chịu mua tôi chớ không chịu mua luôn con P’issy của tôi, thế nầy thì tôi không còn gì phải buồn ‘ầu, và tôi cám ơn quí vị. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tỏ ‘a mình không bao giờ quên…

− Hừm… hừm…

Gerald chỉ có thể tằng hắng như thế để che giấu sự bối rối của mình khi bị phát giác lộ liễu một nghĩa cử.

Dilcey quay sang phía Scarlett và có một cái gì ở khóe mắt mụ giống như một nụ cười:

− Thưa cô Sca’lett, Po’k có nói với tôi là chính cô đã yêu cầu ông Ge’ald mua tôi. Do đó, tôi ‘ất sung sướng để con P’issy làm nữ tỳ ‘iêng của cô.

Mụ vói tay ra sau lôi đứa bé tới trước. Đó là một con bé loắt choắt, da nâu, chân khẳng khiu như chim, trên đầu xoắn tít những lọn tóc vô số bằng chỉ sợi. Mắt nó sắc bén, chẳng một điều gì có thể lọt qua nhưng mặt lại làm ra ngu dại.

Scarlett đáp:

− Cám ơn Dilcey, nhưng tôi ngại là Mammy chẳng tán thành. Bà đã từng phục dịch tôi ngay từ lúc mới sanh ra.

Dilcey đáp lại bằng một giọng thản nhiên có thể làm cho Mammy tức điên lên nếu bà có mặt:

− Mammy đã già ‘ồi! Bà là một người vú tốt, nhưng cô bây giờ là một thiếu nữ ‘ồi, cần phải có một nữ tỳ giỏi, và con P’issy của tôi đã từng hầu hạ cô India tới một năm ‘ồi. Nó biết may vá và cài tóc khéo như người lớn.

Bị mẹ đẩy tới, cô bé vừa cúi chào vừa cười toe toét, khiến Scarlett chẳng thể nào đừng cười trả lại. Nàng nghĩ: “Đúng là một con quỉ nhỏ lém lỉnh” và nói lớn:

− Cám ơn Dilcey, mình sẽ bàn lại chuyện đó khi mẹ tôi về tới.

− Dạ, cám ơn cô. Chúc cô ngon giấc.

Dilcey nói xong, quay lại dẫn đứa con ra khỏi phòng, riêng Pork vẫn còn đứng hầu. Đồ ăn đã dẹp hết, Gerald tiếp tục bài diễn văn của ông, nhưng ít hứng thú hơn, còn mấy thính giả của ông thì chẳng thích chút nào. Với một giọng hùng hồn, ông nêu ra những dự đoán về cuộc chiến tranh và những câu hỏi cũng hùng hồn như là miền Nam có chịu khoanh tay ngồi ngó hay không trước sự lăng nhục của bọn Yankee và chỉ được các con ông trả lời lí nhí: “Phải, thưa ba” và “Không phải, ba”.

Carreen ngồi trên gối lót, dưới ngọn đèn lớn đang chăm chú đọc chuyện tình của một thiếu nữ đi tu sau khi người yêu chết, rơi nước mắt xúc động âm thầm vừa thích thú tưởng tượng lúc mình đang đội chiếc mũ trắng của nữ tu. Suellen thì ngồi thêu mấy món đồ mà cô gọi đùa là “Của Hồi Môn”, thầm nghĩ xem có thể nào tách rời được Stuart Tarleton ra khỏi Scarlett ngày mai không, để mê hoặc Stuart với những đức tánh dịu dàng rất đàn bà của cô mà Scarlett không thể có. Trong khi đó, Scarlett đang nát lòng vì chuyện Ashley.

Tại sao ba cứ nói hoài về vụ căn cứ Sumter và bọn Yankee, trong khi ba biết trái tim mình đang tan nát? Cũng như những cô gái trẻ khác, nàng lạ lùng chẳng hiểu tại sao người ta lại quá ích kỷ đến nỗi quên luôn sự đau đớn của nàng và tại sao trái đất cứ tiếp tục quay không chút ngó ngàng tới tâm trạng đau xót của nàng.

Nàng tưởng tượng như có cơn lốc vừa thổi qua, và ngạc nhiên thấy phòng ăn vẫn yên ổn, vẫn không thay đổi, y hệt như trước nay. Bàn ăn, tủ trà bằng gỗ đào hoa tâm, muỗng nĩa bằng bạc nguyên chất, tấm thảm chói lọi trên nền nhà bóng loáng đều ở đúng vị trí quen thuộc của chúng, như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đây là gian phòng thân thuộc, tiện nghi. Thường thường Scarlett yêu thích những giờ êm ấm lúc gia đình còn nán lại sau bữa ăn tối, nhưng hôm nay, nàng ghét nhìn thấy nó, và, nếu không ngại những câu hỏi sang sảng của cha, chắc nàng đã chuồn ra ngoài, xuống tiểu phòng làm việc của Ellen, ngồi trên trường kỷ khóc để vơi sầu.

Đó là gian phòng Scarlett thích nhứt nhà. Nơi đó mỗi sáng, sau bàn giấy cao nghệu, Ellen ngồi tính toán việc chi thu của đồn điền và nghe phúc trình của Jonas Wilkerson, viên quản gia. Gia đình cũng tề tựu ở đó để giết thì giờ trong khi Ellen tính sổ bằng bút lông, Gerald ngồi trong cái đu cũ kỷ, các cô gái thì chiếm giữ mấy cái gối lót đã phai màu của trường kỷ, vì móp méo nên không đặt ở phòng ngoài. Scarlett nóng lòng được ngồi một mình với Ellen và đặt đầu lên gối mẹ khóc cho thoả thích. Mẹ vẫn chưa về sao?

Nhưng rồi, có tiếng bánh xe vang rộn ràng trên đường trải đá, và có giọng thầm thì êm dịu của Ellen vọng vào khi bà cho người xà ích đi nghỉ. Mấy cha con cùng sốt ruột ngẩng đầu lên khi bà bước nhanh vào, váy đong đưa, nét mặt mệt nhọc và buồn bã. Cùng một lượt với bà mùi dầu sả thoang thoảng trong phòng, mùi hương lúc nào cũng bám theo những nếp xếp của áo bà, mùi hương luôn luôn nối liền tư tưởng của Scarlett với mẹ. Mammy theo sau vài bước, tay xách túi da, môi dưới xệ xuống, mày nhíu thấp. Mammy lẩm bẩm, giữ thấp giọng để người ngoài không nghe ra, nhưng đủ to để chứng tỏ sự bất bình!

− Tôi rất tiếc phải về quá trễ.

Ellen vừa nói, vừa gỡ khăn choàng trao cho Scarlett, nựng nhẹ gò má con.

Mặt Gerald sáng rực lên như bởi một ma thuật khi vợ ông bước vào. Ông hỏi:

− Đứa nhỏ được đặt tên Thánh chưa?

Ellen đáp:

− Rồi, và, tội nghiệp, nó đã chết. Tôi sợ Emmie cũng chết theo, nhưng tôi nghĩ là nó có thể sống được.

Mấy cô gái đưa mắt nhìn bà, ngạc nhiên dọ hỏi trong khi Gerald lúc lắc đầu một cách điềm tĩnh:

− Vậy cũng xong, thằng nhỏ đó chết là tốt, không còn nghi ngờ gì nữa, đứa con hoa…

− Khuya lắm rồi, mình cầu kinh ngay đi.

Ellen ngắt lời, thật êm ái đến nỗi nếu Scarlett không biết rõ mẹ, sự ngắt lời đó sẽ trôi qua mà nàng không cảm thấy có ẩn ý nào.

Thật là thú vị khi biết ai là cha đứa con của Emmie, nhưng Scarlett hiểu không bao giờ nàng được biết sự thật nếu chờ mẹ nói ra. Scarlett nghi cho Jonas Wilkerson, vì nàng thường thấy hắn đi chung với Emmie những buổi chiều tối. Jonas là người Yankee và độc thân. Chức vụ quản gia đã ngăn cản hắn không được giao thiệp với xã hội trong hạt. Không gia đình đàng hoàng nào trong hạt có thể gả con cho hắn, không người nào có thể kết thân với hắn ngoại trừ Slattery và bọn hạ lưu như vậy. Vì trình độ học vấn của hắn cao hơn Emmie nhiều bực nên hiển nhiên là hắn không muốn cưới cô ta, mặc dầu hắn thường đi chung với cô ta vào lúc hoàng hôn.

Scarlett thở dài, vì tính tò mò bén nhọn của nàng không được thoả mãn. Dưới mắt mẹ nàng, mọi việc chẳng đáng chú ý bao nhiêu cũng giống như chẳng hề xảy tới. Ellen làm ngơ trước tất cả những việc trái ngược với tư tưởng của riêng bà và cố gắng dạy Scarlett như vậy, nhưng kết quả chẳng bao nhiêu.

Ellen bước tới cái kệ trên lò sưởi lấy xâu chuỗi trong các hộp khảm xà cừ nhưng Mammy ngăn lại một cách quả quyết:

− Thưa bà Ellen, bà cần phải ăn một chút t’ước khi đọc kinh.

− Cám ơn Mammy, nhưng tôi không đói.

− Tôi sẽ tự tay dọn ăn cho bà và bà phải ăn mới được.

Trán nhăn tít vì bực dọc, bà bước xuống nhà bếp, gọi lớn:

− Po’k, bảo con bếp nhúm lửa, bà Ellen về ‘ồi.

Trong khi sàn nhà rung rinh dưới sức nặng của bà, những lời lầm bầm của bà từ lúc mới trở về càng ngày càng lớn, rõ tận tai của mỗi người trong phòng ăn:

− Mình đã nói như vậy nhiều lần. Chẳng có ích gì khi giúp đỡ bọn da t’ắng không ‘a gì đó. Chúng là thứ lười nhứt, bội bạc nhứt. Và bà Ellen lại đi giúp đỡ chúng. Cứ cho mấy đứa da đen săn sóc chúng là đủ ‘ồi. Mình đã nói với bà Ellen là…

Giọng của bà kéo lên cho đến lúc bà bước vào hành lang chỉ lợp nóc đưa tới nhà bếp. Mammy có phương pháp riêng để phát biểu ý kiến chính xác của bà về mọi chuyện. Bà biết phẩm cách của người da trắng thượng lưu không cho phép họ để ý đến những lời lầm bầm trong miệng một người da đen. Bà biết rằng để bảo toàn cái phẩm cách đó, họ phải làm bộ không nghe những gì bà nói, dù bà có đứng ở gian phòng kế bên và la thật lớn. Điều đó tránh được cho bà mọi sự khiển trách mà mọi người vẫn có thể nghe được quan điểm của bà về một số vấn đề.

Pork bước vào phòng ăn, mang theo một cái dĩa, muỗng nĩa bằng bạc và một khăn ăn, theo sau là Jack, một đứa bé da đen 10 tuổi, hấp tấp gài nút chiếc áo khoác bằng nỉ trắng với một tay, còn tay kia thì cầm một phất trần đuổi ruồi làm bằng nhiều miếng giấy báo cắt nhỏ, cột ở đầu một cây sậy cao hơn nó. Ellen có một cây đuổi ruồi thật đẹp bằng lông công, nhưng nó chỉ được dùng trong những trường hợp đặc biệt, và bà phải chống lại với quan điểm của bọn gia nhân, vì theo chúng, lông công là điềm xui xẻo.

Ellen ngồi xuống chiếc ghế Gerald vừa đẩy tới cho bà, và bốn giọng nói tranh nhau mở lời:

− Má, áo dạ hội con sút ren rồi, con muốn bận nó ngày mai ở Twelve Oaks. Má có thể kết lại cho con chớ?

− Má, cái áo của Scarlett đẹp hơn của con, màu hồng làm cho con xấu như quỉ. Tại sao chỉ không mặc màu hồng và để cho con cái màu xanh của chỉ? Chỉ mặc màu hồng hợp lắm.

− Má, con có thể dự dạ vũ được không? Con mười ba tuổi rồi!

− Bà O’Hara ơi, bà có tin thế không… Suỵt, mấy đứa con gái, coi chừng ăn roi nghe! Cade Calvert vừa ở Atlanta về sáng nay… Mấy đứa bây có chịu im để tao còn được nghe tiếng nói của tao hay không?… Hắn nói tình trạng ở đó rất hỗn loạn, ai cũng nói về chiến tranh, tập luyện dân quân, thành lập quân đội. Và hắn nói, theo những tin từ Charleston, rằng họ sẽ làm cho quân Yankee không bao giờ phỉ báng mình được nữa…

Ellen mỉm cười mệt nhọc. Giữa những sự ồn ào đó, bà trả lời câu hỏi của chồng trước, đúng theo bổn phận của một người vợ:

− Nếu những người Charleston đáng kính ấy đã chọn đường lối kia thì tôi tin sớm muộn gì chúng ta cũng chọn cùng đường lối với họ.

Bà nói thế vì bà tin tưởng mãnh liệt rằng phần lớn những dòng máu quí phái của đại lục đều nằm trong thành phố hải cảng nhỏ xíu kia và đa số người Charleston đều đồng ý về điểm nầy.

− Không, Carreen, hãy đợi sang năm, con gái cưng. Lúc đó con mới có thể thức khuya để khiêu vũ, mặc quần áo người lớn, và con sẽ có một đôi má hồng thật đẹp. Đừng giận, con gái! Con dự dã yến được và có thể thức đến khi xong bữa ăn tối, nhưng không được dự dạ vũ khi con chưa tới mười bốn tuổi, hãy nhớ điều đó!

− Đưa cái áo con cho má, Scarlett, má sẽ vắt đăng ten lại khi cầu nguyện xong.

− Suellen, má không ưa cái giọng của con. Cái áo hồng rất dễ thương và hợp với màu da của con lắm, cũng như áo của Scarlett hợp với nước da của nó vậy. Tối nay má sẽ cho con mượn xâu chuỗi thạch lựu ngọc.

Suellen, đằng sau Ellen, đắc thắng nhăn mũi với Scarlett, vì nàng đã định xin mẹ đeo xâu chuỗi ấy. Scarlett thè lưỡi chọc lại, Suellen đúng là một cô em khó chịu với tánh ích kỷ và hay than van, và nếu Ellen không kềm giữ được, chắc chắn Scarlett đã nhiều lần bạt tai em. Ellen nói:

− Bây giờ, ông O’Hara hãy kể xem ông Calvert còn nói gì về Charleston nữa không?

Scarlett biết mẹ không hề quan tâm về những thứ như chánh trị, chiến tranh và nghĩ rằng đó là những chuyện của đàn ông, không người đàn bà nào có thể xen vào một cách thông thạo. Nhưng điều nầy làm cho Gerald thích thú được phô trương quan điểm của ông, và Ellen luôn luôn ân cần với những thú vui của chồng.

Trong khi Gerald nói huyên thuyên về những tin tức nghe được. Mammy đặt trước mặt bà chủ mấy dĩa bánh nướng, vàng óng, ức gà chiên và củ khoai mỡ vàng đã lột vỏ trộn chung với bơ lỏng bốc khói nghi ngút. Mammy véo Jack một cái, nó hấp tấp làm nhiệm vụ bằng cách phe phẩy nhè nhẹ cây đuổi ruồi phía sau Ellen. Mammy đứng bên cạnh bàn, nhìn mỗi miếng ăn đi vào miệng Ellen, làm như bà có ý định nhét các thức ăn ấy vào cổ Ellen nếu bà tỏ dấu chán ngán. Ellen cố gắng ăn, nhưng Scarlett thấy rõ là bà quá mệt nhọc tới nổi không biết mình đang ăn món gì. Chỉ có gương mặt lạnh như đồng của Mammy mới ép buộc bà làm như vậy được.

Khi dĩa đã cạn thức ăn và Gerald đang ở đoạn giữa những lời chỉ trích về bọn ăn cắp Yankee, muốn phóng nô mà chẳng chịu đóng góp một xu để trả giá sự tự do của chúng, thì Ellen đứng dậy.

Bà miễn cưỡng hỏi chồng:

− Chúng ta có thể cầu nguyện được chưa?

− Được, khuya rồi! Ủa, đã mười giờ rồi kìa!

Đúng lúc đó, đồng hồ tường khúc khắc gõ mười tiếng bằng quả lắc thiếc.

− Carreen đáng lẽ phải ngủ lâu rồi. Mang đèn lại đây, Pork, và cuốn kinh của tôi, Mammy.

− Được.

Mammy nhắc bằng một giọng thì thào khàn khàn, Jack cất cây đuổi ruồi trong một góc và dọn dẹp mấy dĩa ăn, trong khi Mammy lục lọi trong những ngăn kéo tủ trà tìm quyển kinh Thánh cũ của Ellen. Pork nhón gót, với lên cái khoen xích và kéo chầm chậm ngọn đèn xuống cho tới khi trần nhà mất dạng trong bóng tối và mặt bàn tràn ngập ánh sáng chói chang. Ellen thu gọn váy và quì xuống sàn nhà, trải quyển kinh Thánh trên bàn ngay trước mặt và chắp tay lên đó. Gerald quì cạnh bên, Scarlett và Suellen vẫn ở chỗ quen thuộc của các cô ở bên kia bàn, gấp chiếc váy rộng chêm dưới gối để bớt đau vì sàn nhà quá cứng. Carreen vì tác nhỏ hơn tuổi, không thể quì một cách thoải mái trước bàn nên quì bên một cái ghế, chống khuỷu tay lên đó. Cô rất thích bộ vì nầy vì cứ thường ngủ gục trong khi cầu nguyện, cho nên trong tư thế đó, cô thoát khỏi sự chú ý của mẹ.

Đám gia nhân kéo nhau tập trung trong đại sảnh và quì ở ngưỡng cửa. Mammy suýt xoa hơi lớn tiếng khi quì xuống, còn Pork thì lưng thẳng như chày vồ. Rosa và Teena, hai cô gái hầu dịu dàng xoè váy vải màu tươi sáng, Cookie, gầy guộc và vàng vọt trong bộ quần áo cũ trắng lóng lánh và Jack khờ đi vì buồn ngủ, tránh xa khỏi Mammy để khỏi bị ngắt véo. Những đôi mắt đen của họ ngời chiếu niềm tin vì được cầu nguyện với chủ là một trong những việc quan trọng một ngày. Đối với họ, những câu kinh cổ và màu mè đó không có ý nghĩa gì hết nhưng vẫn làm thoả mãn một cái gì trong lòng họ, và họ thường lay động khi xướng họa những câu “Xin Đức Chúa Trời thương xót chúng con”, “Xin đấng Christ thương xót chúng con”.

Ellen nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện. Giọng của bà lúc vượt cao, lúc hạ xuống, lúc dịu đi như ru ngủ. Tất cả các mái đầu đều cúi xuống dưới vòm ánh sáng vàng rực của ngọn đèn, trong khi Ellen tạ ơn Thượng đế đã ban sức khoẻ và hạnh phúc cho ngôi nhà, cho gia đình và cho những người da đen của bà.

Khi bà chấm dứt những lời cầu nguyện cho những người sống dưới mái nhà Tara, cho cha mẹ, chị em, cho ba đứa con trai đã chết của bà, và “cho những linh hồn bất hạnh ở Tỉnh Tội Giới”, bà siết chặt xâu chuỗi trong tay và bắt đầu lần hạt. Y như tiếng rì rào của một làn gió nhẹ, những lời xướng hoạ tuôn ra khỏi cổ họng người da trắng lẫn da đen.

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội, khi nầy và trong giờ lâm tử”.

Dù đang đau đớn, xót xa bởi không thể khóc lên được, một cảm giác âm trầm, êm dịu và bình an vẫn cứ tới với Scarlett trong những giờ phút đó. Nàng đã gạt bỏ được sự chán nản hôm nay và sự sợ hãi ngày mai, nhường chỗ cho một niềm hy vọng đột khởi. Không phải sự hướng thượng của nàng đối với Thượng đế đã mang tới cho nàng hương vị đó, vì đối với nàng Tôn giáo không có gì hơn là những lời thì thầm và cầu nguyện. Chính là sự nhìn thấy khuôn mặt thánh thiện của mẹ nàng xoay về ngai Chúa, các Thánh và Thiên thần của Ngài, và xin giáng phúc cho những người bà yêu thương đã cho nàng cảm giác đó. Khi Ellen khẩn cầu đấng Tối cao, Scarlett chắc chắn là Người cũng nghe thấy.

Ellen ngừng lại, và Gerald, chẳng bao giờ tìm ra xâu chuỗi của mình trong giờ cầu nguyện, len lén đếm trên mười đầu ngón tay.

Nghe âm thanh đều đều của cha, tư tưởng của Scarlett bắt đầu tản mác, không còn tự chế được. Nàng biết là phải tự vấn lương tâm.

Ellen đã dặn nàng, cứ mỗi ngày, nàng có bổn phận phải xét kỹ lương tâm để thú nhận tội lỗi, cầu xin Chúa Trời thứ tội và ban cho sức khoẻ để khỏi bao giờ tái phạm. Nhưng hôm nay, Scarlett lại tự vấn trái tim nàng.

Nàng giấu đầu trong lòng bàn tay để mẹ không nhìn thấy mặt, và những ý nghĩ của nàng buồn thảm quay về Ashley. Tại sao chàng lại định cưới Melanie trong khi thật lòng yêu nàng, Scarlett? Và trong khi chàng cũng biết là nàng yêu chàng? Tại sao chàng có thể chủ tâm bóp vỡ trái tim nàng?

Đột nhiên, một ý tưởng sáng lòe và mới mẻ, xẹt như sao chổi qua trí óc nàng:

− Ủa, Ashley đâu có biết là mình yêu chàng!

Suýt nữa nàng đã thở ra thật mạnh vì sự khích động bất ngờ đó. Tư tưởng nàng dừng lại như bị tê liệt một lúc lâu, hụt hơi trong một lúc rồi lại phóng sổ về phía trước.

− Làm sao chàng biết được? Mình luôn luôn tỏ ra kiêu kỳ, đứng đắn và cao quí trước mặt chàng, chàng có thể nghĩ mình chỉ coi chàng như một người bạn. Đúng rồi, chính vì vậy mà chàng không bao giờ tỏ tình với mình. Chàng nghĩ chàng đã yêu trong tuyệt vọng, chính vì vậy mà chàng trông có vẻ quá…

Scarlett hồi tưởng thật mau tới những lúc bắt gặp Ashley nhìn mình với một vẻ kỳ lạ, lúc đó đôi mắt xám như bức màn hoàn toàn che lấp cảm nghĩ của chàng như mở lớn ra, chứa đựng một vẻ thống khổ và tuyệt vọng.

“Chàng đau lòng vì cho rằng mình yêu Brent, Stuart hay Cade. Và có lẽ chàng đã nghĩ rằng nếu không cưới được mình thà làm vui lòng gia đình bằng cách cưới Melanie. Nhưng nếu Ashley biết mình yêu chàng…”

Đầu óc hay thay đổi của nàng bắn vọt từ chỗ ngã lòng sâu xa nhứt lên đến cõi phấn khởi cuồng nhiệt. Đó là do bản tánh ít nói và lối xử sự lạ lùng của chàng. Chàng không hề biết lòng tự kiêu của nàng nổi dậy với sự tiếp sức do lòng thèm muốn tin tưởng của nàng, biến niềm tin thành sự thật. Nếu Ashley biết nàng yêu chàng, chàng sẽ hấp tấp đến với nàng ngay. Nàng chỉ còn…

“Ồ”, nàng suy nghĩ một cách say sưa, mấy ngón tay bấu vào trán. “Mình thật là ngốc, đã không nghĩ đến điều ấy sớm hơn! Mình phải nghĩ cách biểu lộ cho chàng biết. Chàng sẽ không thể cưới Melanie được nếu biết mình yêu chàng! Làm sao chàng có thể làm như vậy được?…”

Scarlett giựt mình khi thấy Gerald chấm dứt đọc kinh và mẹ đang nhìn nàng chòng chọc. Nàng vội vã bắt đầu lần chuỗi một cách máy móc nhưng giọng nàng lạc hẳn vì xúc động khiến cho Mammy hé mắt nhìn với vẻ dò xét. Nàng vừa dứt cầu kinh thì Suellen và kế đó là Ellen tiếp tục, trí óc nàng lại phóng hết tốc độ tới những cảm nghĩ vừa đột nhập.

Bây giờ cũng chưa trễ lắm! Từ lâu, trong hạt người ta thường đàm tiếu về những vụ cô dâu hoặc chú rể bỏ trốn khi người thứ ba xuất hiện giữa lúc hai họ đang làm lễ cưới trước bàn thờ. Vả lại, lễ đính hôn của Ashley đã được loan báo đâu? Vậy là hãy còn đủ thì giờ!

Nếu giữa Ashley và Melanie không có tình yêu mà chỉ là sự giao kết từ lâu, thì tại sao chàng lại không thể huỷ bỏ lời giao kết nầy để cưới mình? Chắc chắn chàng sẽ làm vậy, nếu chàng biết mình, Scarlett, yêu chàng. Nàng phải tìm cách cho chàng biết. Nàng phải tìm ra một cách nào đó! Và rồi…

Scarlett thình lình tỉnh mộng vì nàng bỏ qua mấy lời xướng họa theo kinh và Ellen nhìn nàng một cách trách móc. Vừa lấy lại điệu bộ, nàng vừa hé mắt liếc nhìn thật mau quanh phòng. Những dáng người quì gối, ánh phản chiếu dịu dàng của ngọn đèn, những bóng lờ mờ lắc lư của bọn da đen và ngay những vật quen thuộc mà nàng rất ghét nhìn cách đây một giờ, trong khoảnh khắc đều mang lại những sắc thái do những cảm xúc riêng của nàng. Và một lần nữa, gian phòng hình như là một nơi đáng yêu. Nàng sẽ không bao giờ quên giây phút và cảnh tượng nầy!

“Đức Mẹ trọn đời đồng trinh”, mẹ nàng lâm râm đọc. Kinh kính mừng Maria bắt đầu, và Scarlett ngoan ngoãn tiếp:

− Cầu cho chúng ta.

Và Ellen với một giọng trầm dịu, ca tụng biểu tượng của Đức Chúa Trời.

Lúc còn bé, Scarlett thường coi Ellen đáng tôn kính hơn Đức Mẹ nữa. Có thể đó là một ý tưởng phạm Thánh, Scarlett thường mở hé mắt nhìn khuôn mặt ngẩng lên của mẹ chớ không nhìn gương mặt của Thánh mẫu lúc lặp lại những câu cũ rích: “Sức mạnh cho những kẻ bịnh tật”, “Đức Bà tha thứ cho những kẻ có tội”, “Đóa hường mầu nhiệm…” đó là những ngôn từ đẹp đẽ, vì nó là biểu tượng của Ellen. Nhưng đêm nay vì khích động, Scarlett nhận thấy trong lễ cầu nguyện, trong những tiếng êm êm, những câu xướng họa thì thầm, một vẻ đẹp vượt lên trên tất cả những gì nàng đã từng chứng kiến. Và nàng dâng trái tim lên cho Thượng đế, thành thật tạ ơn Ngài đã mở một con đường dưới chân nàng, để đem nàng ra khỏi cảnh khốn cùng và tiến thẳng vào vòng tay của Ashley.

Khi tiếng Amen cuối cùng được đọc lên, tất cả cùng đứng dậy, hơi tê người một chút. Mammy gượng đứng dậy với sự giúp đỡ của Teena và Rosa, Pork lấy cuộn mồi lửa trên kệ, đốt đèn lên, rồi bước ra phòng ngoài. Đối diện với cầu thang là tủ đựng chén bát bằng gỗ hồ đào, vì quá lớn nên không sử dụng được trong phòng ăn. Bên trên mặt tủ có đặt nhiều đèn và một dãy chúc đài cắm sẵn nến. Pork thắp xong một ngọn đèn với ba ngọn nến rồi với vẻ trịnh trọng của một ngự tiền thị vệ trong nội cung, soi đèn cho đức Vua cùng Hoàng hậu về thư phòng, dẫn đoàn người lên thang, nâng cao ngọn đèn lên khỏi đầu. Ellen nắm vịn Gerald bước theo ông, mấy cô gái, mỗi cô cầm một chúc đài bước theo sau.

Scarlett về phòng, đặt giá nến lên nóc tủ kéo và lục lọi trong cái tủ ngầm ở tường kiếm bộ áo khiêu vũ cần phải khâu lại.

Kẹp áo trong tay, nàng im lặng băng qua phòng ngoài. Cửa phòng của cha mẹ vẫn còn hé mở. Nàng sắp sửa gõ cửa thì bỗng nghe giọng nói thật thấp nhưng nghiêm nghị của Ellen:

− Ông O’Hara, ông phải cho Jonas Wilkerson nghỉ việc.

Gerald to tiếng:

− Rồi tôi sẽ tìm đâu ra một đứa quản gia khác, không lường gạt của tôi lấy một xu?

− Phải đuổi nó lập tức, ngay sáng mai. Sam khổng lồ là thằng cai giỏi, nó có thể làm thế công việc cho đến khi ông mướn được người quản gia khác.

Giọng Gerald vang rõ:

− A ha! Tôi hiểu rồi, thì ra cái thằng Jonas xứng đáng của tôi đã thổi phình cái bụng…

− Phải đuổi hắn ngay.

Scarlett nghĩ thầm:

− Thì ra Jonas là cha của đứa bé con Emmie Slaterry. Ồ, đúng rồi, còn đoán xa đoán gần gì nữa đối với một tên Yankee và một đứa con gái da trắng đốn mạc.

Cẩn thận chờ cho tiếng càu nhàu của cha mình lắng xuống, Scarlett gõ cửa, trao cho mẹ cái áo rồi về phòng.

Trong lúc cởi áo ra và tắt nến, nàng phác họa một chương trình làm việc với đủ mọi chi tiết cho ngày mai. Đó chỉ là một chương trình đơn giản, rất hợp với đức tính của Gerald, nghĩa là rất quả quyết. Nàng không lơi mắt trước mục tiêu và chỉ nghĩ đến những bước trực tiếp nhứt để đạt được thành quả.

Trước tiên, nàng sẽ làm bộ “rất kiêu hãnh” như Gerald đã dạy. Ngay lúc đến Twelve Oaks nàng sẽ làm như tươi vui nhứt, không ai có thể ngờ là nàng đang đau xót về chuyện Ashley với Melanie. Nàng sẽ làm dáng với tất cả mọi người. Điều đó hơi tàn nhẫn đối với Ashley, nhưng nó sẽ làm cho chàng khao khát nàng hơn, nàng sẽ không bỏ qua một người đàn ông nào còn trong tuổi kén vợ. Từ Frank Kennedy râu đỏ, già xọm – kẻ trồng cây si Suellen – cho tới Charles Hamilton rụt rè mắc cở và trầm lặng, em của Melanie. Họ sẽ vây quanh nàng như con ong vầy quanh tổ, và Ashley sẽ rời Melanie để nhập bọn với những kẻ ái mộ nàng. Rồi nàng sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Ashley vài phút, xa đám đông. Nàng hy vọng mọi việc sẽ xảy ra êm thấm và nếu không có thể sẽ khó khăn hơn. Và nếu Ashley không ngỏ lời trước thì chính nàng sẽ làm điều đó.

Cuối cùng, khi cả hai đã hoàn toàn riêng rẽ, chàng sẽ nhớ ngay tới hình ảnh những gã đàn ông mới chen lấn quanh nàng và Ashley sẽ cảm xúc hơn nữa với sự kiện tất cả những kẻ ấy đều ao ước chiếm được nàng. Và nét buồn thảm pha lẫn thất vọng của hôm nọ sẽ hiện lên ở mắt chàng. Bấy giờ nàng sẽ làm cho chàng khoan khoái trở lại bằng cách để cho chàng thấy nàng vẫn yêu thích chàng hơn mọi đàn ông trên thế giới. Và khi thú nhận điều đó, nàng sẽ làm ra khiêm tốn, dịu dàng và hàng ngàn phương cách khác nữa. Dĩ nhiên, nàng sẽ thực hiện tất cả những việc đó trong phạm vi của phụ nữ đoan trang. Nàng sẽ không mơ mộng mà nói một cách trơ tráo là yêu chàng, đó là một việc không đưa tới thành công. Nhưng chọn cách nào để nói vẫn là một chi tiết chẳng làm nàng bối rối bao nhiêu. Từ trước, nàng đã sắp xếp được những hoàn cảnh tương tự thì nàng vẫn có thể lại làm như thế dễ dàng.

Nằm dài trên giường, đắm mình trong ánh trăng, Scarlett hình dung suốt cảnh ấy. Nàng tưởng tượng tới sự ngạc nhiên và hạnh phúc hiện rõ trên mặt Ashley khi nàng xác định là nàng thật lòng yêu chàng và nàng sẽ được nghe những lời chàng phải nói để cầu hôn.

Tự nhiên là nàng sẽ trả lời rằng nàng không thể nghĩ tới chuyện kết hôn với một người đàn ông đã đính ước với một cô gái khác, nhưng chàng sẽ cố van nài và nàng sẽ làm như bị thuyết phục. Kế đó, cả hai cùng quyết định trốn đi Jonesboro ngay xế trưa hôm ấy và…

Ủa! Trong đêm mai vào giờ nầy nàng có thể đã là bà Ashley Wilkes!

Scarlett ngồi bật dậy trong vòng tay ôm gối và trong lúc lâu tràn ngập hạnh phúc, nàng thấy mình đã là bà Ashley Wilkes – vợ của Ashley! Nhưng một cảm giác lạnh buốt bỗng xua tới. Nếu mọi việc không tiến hành theo một chiều thuận lợi? Nếu Ashley không khẩn cầu nàng trốn đi với chàng? Nàng xua đuổi một cách quả quyết tư tưởng đó ra khỏi óc.

“Mình sẽ không nghĩ tới chuyện đó bây giờ, nó sẽ làm mình rối trí lên mất. Chẳng có lý do gì mọi việc sẽ không xảy ra theo chiều hướng mong muốn của mình, nếu chàng yêu mình. Và mình biết chàng phải yêu mình.”

Nàng ngẩng càm lên, và đôi mắt xanh viền mi đen lấp lánh ánh trăng, Ellen chưa bao giờ nói với nàng rằng điều ước mơ và sự thành tựu là hai việc rất khác nhau. Cuộc sống chưa dạy nàng rằng kẻ thắng cuộc đua không phải chỉ là những người mau nhứt. Nàng nằm xuống trong ánh bạc với lòng can đảm vượt lên, và phác họa những dự định của một cô gái 16 tuổi, mà cuộc đời thật hoàn mỹ, đến nỗi thất bại chỉ là một chuyện không tưởng, còn một cái áo đẹp hay một làn da mịn màng mới là khí giới để chiến thắng số phận.