Chương 37

Tù chính trị ở trại Tân Lập đông chứ không phải ít. Tại nơi tôi được đưa tới, sau mới biết tên là Trại A, có tới trên hai trăm người. Sáng hôm sau, khi người ta chỉ cho tôi ra sân trại để nhập vào cái khối xám xịt lúp xúp nón mê đang ngồi xổm úp mặt vào lưng nhau chờ bị gọi đi lao động, tôi thật sự sửng sốt: “Thế này mà là những người làm chính trị ư?!!”.

Những nhà chính trị bị bỏ tù, chính trị phạm, nay gọi là trại viên số lẻ, sống trong mấy nhà giam. Những ngôi nhà bề ngoài bình thường, hơi dài một chút, tường quét vôi trắng, nền cao, với những cửa sổ lớn. Phân biệt với nhà ở là cái cửa ra vào – nó không có hai cánh mà chỉ có một, nhưng rất dày, chắc nịch, bằng gỗ lim, lốm đốm những bù loong, then, chốt đen xì. Dãy nhà giam thẳng hàng nằm trong một khu đất có tường rào dây thép gai bao quanh làm thành một tứ giác không đều, mỗi góc có một vọng gác.

Tù số lẻ được phân chia thành từng toán, mỗi toán hơn bù kém độ ba chục người do một quản giáo trông coi. Dưới quyền quản giáo là một cai tù, gọi là toán trưởng, được Ban Giám thị lựa chọn trong số tù cải tạo tốt.

– Phải cẩn thận với toán trưởng! – một người nói khẽ trong khi đi ngang – Gia-ve(1) có hạng đấy!

Tôi ngẩn ngơ nhìn anh ta, nhưng anh ta đã đi khuất, nhanh như cắt, lẫn vào trong đám áo xám.

Lát sau, một anh chàng không còn trẻ, nhưng cũng chưa già, ăn vận bảnh bao, tuy vẫn đồ tù đấy nhưng mới và sạch, lại không có hai chữ CT(2) to bằng bàn tay trên lưng áo như những người tù khác, đến trước mặt tôi:

– Tôi là toán trưởng. Anh tên chi?

Tôi nói tên họ. Anh ta giở sổ, hí hoáy ghi.

– Số tù bao nhiêu?

Chưa bao giờ người ta nói với tôi rằng tôi là một con số.

– Tôi không biết!

– Sao lại không biết? – anh ta gắt lên – Mỗi người phải có số của mình. Nó là cái tên của anh trong tù, sao lại không biết? Anh dở người chắc?

Tôi lạnh lùng nhìn thẳng vào mắt y:

– Này, anh hãy ăn nói cho cẩn thận. Tôi nói không biết là không biết. Anh đi mà hỏi Ban Giám thị!

Trên mặt toán trưởng thoáng một nét ngạc nhiên pha lẫn bối rối. Chắc chưa có người tù nào nói với anh ta bằng giọng sẵng như vậy.

Những người tò mò ùa tới, vây quanh chúng tôi. Nhìn họ, tôi biết họ không muốn tôi bị toán trưởng bắt nạt. Họ nhao nhao:

– Anh ta vừa ở biệt giam ra. Có khi chưa có số thật.

– Thì phải từ từ giải thích cho anh ấy.

– Số lẻ với nhau cả. Ðừng làm cái trò ma cũ bắt nạt ma mới.

Toán trưởng phân trần:

– Thì tôi chỉ hỏi số anh ta để ghi vào sổ thôi. Anh ta lại bảo không biết. Biệt giam thì cũng phải có số chứ.

– Có phải thứ biệt giam nào cũng giống thứ biệt giam nào đâu.

– Chưa có số thì cứ tạm ghi tên vào sổ cái đã, hỏi sau. Ði đâu mà vội.

– Mới, ai người ta biết phải làm gì.

Toán trưởng xua xua tay:

– Ðể cho tôi làm việc!

Y muốn lên mặt, rõ ràng thế.

– Tôi khuyên anh hãy để việc đó cho Ban Giám thị. – tôi nói, lạnh lùng – Họ có trách nhiệm, chứ không phải anh.

Toán trưởng bối rối:

– Nhưng tôi là toán trưởng, tôi phải nắm quân số.

– Anh cứ nói toán anh có một người tù không biết số bao nhiêu. Thế là xong!

Mọi người cười ồ.

– Thôi được, lát nữa anh lên Ban Giám thị hỏi số của anh bao nhiêu, nhé! – toán trưởng hạ giọng – Phàm là tù thì phải có số chứ.

Tôi đáp:

– Tôi đã nói rồi – đó là việc của công an. Số tù đối với tôi chẳng để làm gì, tôi không cần đến nó, tôi không xin.

Mọi người lại cười ồ. Toán trưởng phẩy tay, bực dọc bỏ đi,

Trần Chấn Hoa lẳng lặng theo dõi cuộc đấu khẩu đầu tiên của tôi với toán trưởng, Tôi vừa xách túi quần áo bước vào ngôi nhà ồn ào y đã chạy tới, vồ vập săn đón.

– Anh Hiên, phải không?

– Ai vậy?

– Em nhận ra anh ngay. – Trần Chấn Hoa liến thoắng – Khi còn ở ngoài em đã được tin anh bị bắt. Anh có nhớ gặp em ở đâu không?

Tôi mỉm cười, giả vờ chăm chú nhìn y:

– Chịu, trông thì quen, mà không nhớ ra được.

Y cười hì hì:

– Anh hay quên quá! Ở nhà anh X. phố Y., anh còn nhớ không?

Tôi nhớ Dứa đã cho tôi biết tên chỉ điểm tôi sẽ gặp là Trần Chấn Hoa.

– Ờ, bây giờ nhớ ra rồi. Nhưng nhớ mặt thôi, tên thì quên mất. Chú tên là gì nhỉ?

– Em là Hoa, Trần Chấn Hoa.

Thì ra Hoa là anh chàng này.

Thời gian cuối ở Bất Bạt tôi đã đóng khá đạt vai kịch người tù kém trí nhớ. Trả lời những câu hỏi của chấp pháp, tôi làm ra vẻ thành thật nhưng trong bản khai thì lẫn lộn lung tung, sự kiện này với sự kiện kia, thời điểm này với thời điểm khác. Lợi dụng cái trí nhớ tồi tàn của tôi, người ta cho Trần Chấn Hoa bịa ra cuộc gặp gỡ ở nhà anh X. ở phố Y. Anh X. ở phố Y. là có thật, nhưng dù có muốn tôi cũng không thể nào kiểm tra được.

– Cậu bị bắt hồi nào?

– Sau anh chừng một năm.

– Vì sao mà bị?

Sau một phút ngần ngừ, y ghé vào tai tôi:

– Em là người Hoa.

– Cậu mà là người Hoa?

– Nói chẳng ai tin, em thạo tiếng Việt quá. Nhưng em sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, có khác gì người Việt đâu. Hồi sáu ba sáu tư Hội Tứ Liên phát triển sang bên này. Em gia nhập. Anh biết Hội Tứ Liên chứ? Nó là một tổ chức chống Mao bên Trung Quốc. Việc bại lộ, em với mấy người nữa bị bắt.

– Thế người ta không trả cậu sang Trung Quốc à?

– May, họ không trả về bên ấy. Về bên ấy thì chết.

Câu chuyện có vẻ giống thực. Tôi chẳng biết Hội Tứ Liên Ngũ Liên nào. Người Tàu vốn thích các con số, cái gì tương chúng vào – Bát lộ quân, Tân tứ quân, Tam phản, Ngũ phản…Cái tổ chức Tứ Liên mà Trần Chấn Hoa khoe tôi chưa nghe nói, nó có thật hay không tôi không biết, nhưng tôi gật đại. Ở bên kia biên giới vào thời gian Ðại nhảy vọt nghe nói có một số tổ chức chống Mao. Không có người chống Mao mới là sự lạ.

Trước khi bị bắt tôi gặp Nguyên Hồng ở nhà Bùi Ngọc Tấn. Bùi Ngọc Tấn hồi ấy đang làm trong một xí nghiệp hải sản ở Hải Phòng. Anh đãi chúng tôi một bữa tối rất sang, toàn đồ biển. Ðang thời thực phẩm hiếm hoi, mọi sự phụ thuộc vào tem phiếu, một bữa như thế phải coi bằng đại tiệc. Chị Bích, vợ anh Tấn, lại là tay nấu nướng có hạng.

Tôi thích những cuộc gặp gỡ với Nguyên Hồng. Tác giả Bỉ Vỏ là người uyên bác trong lĩnh vực đời sống dân dã. Lần nào gặp nhau tôi cũng kiếm được ở anh một chút kiến thức thú vị. Nguyên Hồng là người phàm tục. Anh thích nhắm ngon, thích rượu ngon, nhưng thích nhất là khi có những thứ đó mà quanh anh là bè bạn. Nhưng trong bữa ăn khoái khẩu hôm ấy anh chỉ lẳng lặng uống. Sau mỗi miếng nhắm anh chống đũa, tư lự. Có vẻ anh buồn.

– Bên Tàu loạn to. Nhiều người chạy sang ta, chạy loạn hay là chạy chính phủ không biết, trông tội lắm. – anh nói, giọng rầu rầu – Mình ở Hải Phòng lâu, các cậu biết đấy, cả thời trẻ mình sống lẫn với người Hoa, mình có cảm tình đặc biệt với người Hoa. Họ chăm làm, tử tế… Trông những người chạy loạn gày còm, đen đủi, nhếch nhác, mình thương quá. Họ tưởng mình cũng là công an, quỳ xuống mà lạy, nước mắt lã chã. Họ xin đừng đem họ trả Trung Quốc, đem trả họ sẽ bị giết hết, họ nói thế. Mình can mấy cậu công an, bảo từ từ xem thế nào đã, nhưng mấy cậu không nghe, một hai đem trả, nói luật biên giới là thế, không trả không được. Những người Hoa kia lăn lộn, kêu khóc ầm ĩ, phải lôi xềnh xệch… Thảm lắm!

– Rồi sao? – chúng tôi hỏi.

– Ðồn biên phòng ta cách đồn bên kia có một quãng. Lát sau, mình vẫn ngồi đấy, nghe phía bên kia có tiếng súng nổ. Hôm sau, những người khác chạy sang nói mấy người bị trả về bị bắn chết hết, bắn tại trận…

Một giọt nước mắt đục lăn trên má anh.

Trần Chấn Hoa thấy tôi không có chăn màn, rủ tôi nằm chung. Tôi vui vẻ nhận lời. Chăn màn tôi để hết ở trại B rồi. Hoa nhanh nhảu thu xếp việc đổi chỗ cho tôi.

Những người tù số lẻ, kẻ thù của cách mạng, xem ra cũng dễ mến. Bên trong bộ đồng phục tù họ giống hệt nhau khi thoạt nhìn. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi bắt đầu đoán được ai người thành phố, ai người nông thôn. Người thành phố phần nhiều là viên chức, sĩ quan chính quyền Bảo Ðại hoặc từng phục vụ quân đội Pháp trong thời kỳ kháng chiến chín năm. Những người này đông nhất, được gọi chung là “ngụy”. Kế đến những tu sĩ Thiên Chúa giáo, chánh trương, trùm trưởng các họ đạo, các chức sắc đạo Phật, phần lớn là các đại đức và cư sĩ. Họ rơi vào tù không phải do có hành vi chống lại chính quyền mà do những hoạt động tôn giáo đơn thuần nhưng lại không nằm trong khuôn khổ những tổ chức tôn giáo yêu nước do Ðảng nặn ra. Ngoài ra, rất linh tinh, không thuộc về những khối rõ rệt là những người bị bắt vì có chân trong các đảng phái phản động có thật và không có thật, cùng là các thứ phần tử được gọi chung chung là có hại cho an ninh xã hội. Chẳng hạn như Toán Xồm và Lộc Vàng, một cây ghi-ta nổi tiếng và một giọng nam trung nổi tiếng trong lớp thị dân thời ấy ở Hà Nội. Họ bị bắt vì tội hát những lãng mạn thời tiền chiến và những bài “nhạc vàng” lọt ra từ miền Nam. Mà lại không phải boọc, có án hẳn hoi mới lạ.

Những người nói trên mắc vào tội chính trị còn có một cái lý nào đó, còn lên gân lập trường mà giải thích được. Nhưng lẫn vào họ có một số ít tù số lẻ nhà quê chất phác và thực thà đến nỗi không thể tưởng tượng nổi họ có thể mắc một tội gì, đừng nói tội chính trị. Chỉ cần nhìn những gương mặt rất mực hiền lành của họ cũng biết ngay đó là những người dân quê chân lấm tay bùn, mà niềm vui nỗi buồn của họ xưa nay chỉ gắn liền với những vụ mùa được mất và sự vơi đầy của nồi cơm. Hỏi ra mới biết mỗi người trong số họ đều có một thiên ngục sử kỳ lạ, vừa bi lại vừa hài, cái nào cũng xứng đáng với một cuốn tiểu thuyết.

Hầu hết tù số lẻ đều là tù không có án, đều là tù tập trung cải tạo. Những người bị tập trung cải tạo, những trại viên, có số tù, y như tù thật, tức là tù có án, tù chính cống. Mọi tiêu chuẩn ăn, mặc, ở của cả hai loại là y như nhau, trừ một chút khác biệt: tù tập trung cải tạo được lĩnh một khoản tiền hàng tháng tương đương với giá hai phong thuốc lào. Cái sự phân biệt trại giam và trại cải tạo như thể đó là hai thứ trại khác nhau chỉ lừa được những người không biết thực tế Việt Nam, hoặc chỉ biết nó qua sách báo chính thống của nhà nước(3).

Nổi bật lên trong những người nhà quê này một anh chàng mặt dài thượt và rỗ chằng rỗ chịt, tên là Dịp Pún Mằn, người Hoa. Không hiểu sao người Hoa rơi vào tù nhiều thế! Mà lại toàn là tù chính trị.

Người Hoa ở Việt Nam rất đông, là một sắc dân đặc biệt. Có những dòng họ ở Việt Nam lâu đời đến nỗi chỉ có thể nhận ra họ là người Trung Quốc bằng những họ tên không Việt, còn thì về sinh hoạt, ngôn ngữ, thậm chí hình hài, họ chẳng khác gì người bản địa.

Tại Hà Nội trước kia có cả một cộng đồng đông đảo người Hoa, gọi là bang, đứng đầu là một bang trưởng. Nay thay vào tổ chức đó có Hội Hoa Liên (Liên hiệp Hoa kiều). Hội có tờ báo riêng là tờ Tân Việt Hoa. Cả Hội Hoa Liên và báo Tân Việt Hoa đều chịu sự lãnh đạo phối hợp của Ðảng Lao động Việt Nam và đại sứ quán Trung Quốc, theo một thỏa thuận ngầm giữa hai nước. Từ khi có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, vai trò Trung Quốc quan trọng hẳn lên trong thế giới thứ ba, thì chính sách Hoa kiều vận của Bắc Kinh thay đổi. Ðược Bắc Kinh khích lệ, những ông con giời thế hệ mới liền vênh mặt với chính quyền sở tại. Hội Hoa Liên và tờ Tân Việt Hoa tách hẳn khỏi sự lãnh đạo của Ðảng Lao độngViệt Nam, giao thiệp với chính quyền Việt Nam cũng theo kiểu ngang hàng. Hoa kiều vụ của Trung Quốc chỉ chăm chút đám Hồng vệ binh ở xa Tổ quốc, chứ không phải tất cả đồng bào. Cho nên những người Hoa không dính dáng với các phong trào đấu tranh cách mạng ở quê hương chẳng được Bắc Kinh bảo vệ. Họ rơi vào nhà tù Việt Nam cả đống, không hiểu vì những tội phản cách mạng loại gì.

Anh chàng người Hoa mà tôi nói tới thường qua lại các nhà giam để mua bán đổi chác. Hàng của anh ta là cá, lươn, trạch, còn sống hoặc kho mặn, giá cả phải chăng. Những người tù đói khát chất tươi lấy áo, lấy quần, hoặc phong thuốc lào, bánh xà phòng, tuýp kem răng vv… ra đổi. Ðồ đổi được Dịp Pún Mằn mang ra ngoài trại bán cho dân, giá của anh bao giờ cũng rẻ hơn giá mậu dịch(4). Hiếm khi thấy anh ta dùng thứ gì mới – quần áo thì rách bươm, chân không mang dép, đồ xa xỉ như xà phòng hay bàn chải răng chẳng bao giờ anh ta dùng đến. Không hiểu anh ta để dành tiền kiếm được làm gì?

Bên trong vẻ ngoài xấu xí Dịp Pún Mằn là người rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè cũng như bất cứ ai cần tới anh. Anh sẵn sàng bỏ cả ngày lang thang trong rừng để kiếm lá thuốc cho một người ốm, người Hoa cũng như người Việt. Người như anh khó mà mắc tội gì. Ông bạn mới quen, một công chức ngụy quyền tóc bạc trắng, phong thái ung dung tự tại, không hiểu sao lại thân với Dịp Pún Mằn, giới thiệu về Dịp Pún Mằn:

– Anh ta là gián điệp quốc tế đấy!

Trời hỡi, thế kia mà là gián điệp quốc tế ư? Ông bạn nói đùa, tôi nghĩ.

Hóa ra không phải. Tội danh Dịp Pún Mằn đúng là như thế. Nó được đọc to, rất rõ ràng, trước toàn trại trong một lần tổng điểm danh(5) ít lâu sau.

– Anh là gián điệp quốc tế thật hả?

Tôi hỏi Dịp Pún Mằn nhân một hôm anh rẽ vào chỗ chúng tôi để bán cá. Gương mặt rỗ ngẩng lên nhìn tôi, ngơ ngác một thoáng.

– Thật. – anh nói bằng giọng không thể thật thà hơn.

Trong nhà tù có một quy ước không thành văn: những người tù không hỏi tội danh của nhau. Tôi là lính mới, không biết quy ước đó, và vì tôi không nén nổi tò mò. Nhưng Dịp Pún Mằn không giận. Anh cười, phô những chiếc răng dài.

– Mà làm gián điệp thế nào?

– Là dắn tệp côốc tế.

Tôi lấy làm lạ: là gián điệp quốc tế, nhưng Dịp Pún Mằn không bị Ban giám thị coi là phần tử nguy hiểm, không bị biệt giam, không bị theo dõi từng bước, đã thế lại còn được tín nhiệm cho đi tự giác.

Công việc chính của Dịp Pún Mằn là chăn đàn trâu trại. Những con trâu ngu ngốc quấn lấy anh không rời. Chúng hiểu anh yêu chúng. Mà Dịp Pún Mằn yêu những con vật to kềnh càng và đen trùi trũi đó thực sự, bằng tất cả tình yêu của con người không còn ai để mà yêu. Trong đàn trâu trại có một con nổi tiếng hung dữ. Với cặp sừng dài, nhọn hoắt nó húc lòi ruột một phạm nhân chăn trâu khi anh này dùng roi song trừng phạt nó vì một tội gì đó. Thế mà từ khi vào tay Dịp Pún Mằn chăn dắt nó liền trở thành con trâu rất hiền. Chỉ cần Dịp Pún Mằn huýt một tiếng sáo hoặc gọi tên nó là nó đã tơn tớn chạy lại để được cọ mình vào anh. Xiêu vẹo bởi tình yêu của con vật, Dịp Pún Mằn toác miệng ra cười, cả gương mặt bừng sáng niềm vui. Anh vừa mắng yêu con trâu vừa vuốt ve nó. Con trâu cũng khoái chá lúc lắc cặp sừng kềnh càng mà rên lên khe khẽ. Anh tắm cho những con trâu mà như bà mẹ tắm cho lũ con nhỏ, kỳ cọ cho chúng từng li từng tí, cậy từng chút rử mắt, cọ cả răng cho chúng. Những đứa con to đùng nằm yên, mắt lim dim tận hưởng cái khoái được mẹ chăm sóc. Anh đi trước, cả đàn trâu lững thững theo sau, con nào con nấy béo núc ních, hõng phẳng lì. Trâu có tật mỗi khi gặp bãi nước đái đồng loại thì dừng lại, cúi xuống hít hít ngửi ngửi rồi vươn dài cái cổ, nhe răng ra cười một cách ngây ngô. Dịp Pún Mằn thấy trâu cười thì cũng cười im lặng, không có tiếng, y như trâu vậy.

Trông toán tự giác là một viên quản giáo trẻ tên là Nguyễn Văn Nhẩm. Ðó là một con người nhân hậu lạ thường, hiện tượng dị biệt trong giới cai ngục. Thấp, đậm người, không đẹp giai, nhưng hồn nhiên và dễ tính, Nhẩm thương tù bằng một tình thương bẩm sinh, không phải tình thương chiếu cố. Biết đánh giá tình thương từ trong tim ấy không ai bằng những người tù. Trong toàn trại(6) toán ông Nhẩm nổi tiếng là toán dễ chịu nhất.

– Ai gửi cho tôi vậy?

– Ông Trần mà. Ông ở nhà B. Ông sang chơi chứ?

Nghe giọng anh ta, một người đàn ông dài ngoẵng, gày quắt và đen nhẻm, chẳng cần giới thiệu cũng biết là người Hoa. Tôi đưa bức thư cho ông bạn già vừa đến chơi với tôi. Ông tên là Trúc, làm chức gì đó nghe rất kêu nhưng vô giá trị, từ thời ông Bảo Ðại còn được người Pháp dùng. Cũng là một người tù vì tính cẩn thận của chính quyền, chứ ông không có đảng phái phản động hay làm gì chống nhà nước hết. Ông đã qua vô số trại, biết vô số tù số lẻ, là người có kinh nghiệm sống trong môi trường tù.

Ông nhón tờ thư, đọc lướt qua rồi nói:

– Lão Trần, đại tá đặc vụ. Tôi biết lão từ trại tạm giam Hải Phòng, hơi toqué(7) nhưng là người đàng hoàng. Anh cứ sang chơi.

– Ðược, anh về trước đi. Tôi sẽ sang. – tôi nói với anh chàng đưa thư.

Anh ta vui vẻ chạy đi.

Trần Chấn Hoa nói:

– Ðể em đưa anh đi. Em cũng quen bác Trần.

– Không tiện. Người ta mời một mà mình đi hai là không lịch sự.

Y tiu nghỉu.

Tôi thay quần áo. Không thể không thay quần áo để yết kiến một người già đối xử trịnh trọng với mình như thế. Chúng tôi chẳng có nhiều quần áo để thay đổi. Không kể bộ pi-gia-ma vợ tôi mang lên khi tôi còn ở trại quân pháp đã rách nát tôi có hai bộ đồng phục tù do Trần Chấn Hoa đem thuốc lá đi đổi cho tôi.

Thì ra lão Trần chính là cái ông già lụ khụ, tuổi có dễ suýt soát tám mươi, với gương mặt nhăn nhúm ló ra từ cái mũ len tứ thời. Nặng nề và chậm chạp trong bộ quần áo không giống ai, bó chẽn cả vạt áo lẫn gấu quần, với đôi tất to sù của vận động viên bóng đá, ông được miễn lao động, sáng sáng cầm cái chổi xể cán dài quét xoèn xoẹt trước cửa nhà B. Tôi biết mặt ông, chỉ không biết ông là đại tá đặc vụ.

Lão Trần ở giường trên lập cập trèo xuống, chắp hai tay vái tôi:

– Thỉnh tiên sinh.

Tôi nói:

– Chào bác. Xin miễn lễ.

Chúng tôi theo nhau trèo lên.

– Tiên sinh an vị.

– Ða tạ.

Tôi ngồi vào chỗ lão chỉ, xếp chân bằng tròn.

Anh chàng đưa thư – đệ tử của lão Trần – nhanh nhảu dọn bàn trà. Trong tù mỗi nhân vật khác thường một chút bao giờ cũng có vài đệ tử. Người thì do cao tuổi, tư cách đáng trọng, người thì do giàu có, được người nhà tiếp tế thường xuyên. Lão Trần thuộc loại thứ hai, loại giàu có. Những người tù nghèo, không có đệ tử thì có anh em kết nghĩa, bố con kết nghĩa, tạo thành một gia đình. Thứ gia đình thế phẩm này là biểu hiện của xu hướng quần tụ tự nhiên, nhưng trong nhà tù, đôi khi nó cũng bệnh hoạn lắm. Những vụ đánh ghen xảy ra thường xuyên, có máu chảy.

Ðể tiếp khách quý, lão Trần mua hẳn một lạng trà “tự biên tự diễn” của cánh lâm sản(8). Trên cái đĩa sắt tráng men cóc gặm cả một gói Polyvitamine được đổ ra. Trong tù đây là sự chiêu đãi long trọng.

– Thỉnh tiên sinh khai trà.

Viên đại tá đặc vụ trong bộ quần áo xơ xác, trông như con chuột cống già, giơ bàn tay với những ngón cong queo vì phong thấp kính cẩn mời tôi. Tôi lễ phép nâng chén lên ngang tầng mắt, nhìn ông qua làn hơi nước. Cuộc thưởng trà diễn ra trịnh trọng, giống như trong tuồng cổ.

Không để ý tới đám tù ồn ào nằm ngồi lộn xộn, người chơi cờ, người may vá, người bắt rận, chúng tôi im lặng cạn chén trà đầu tiên. Bằng cách đó chúng tôi đồng tình tạo ra một sự tự kỷ ám thị như thể không phải chúng tôi đang ở trong tù mà ở một nơi nào khác của xã hội văn minh, nơi con người có thể nhẩn nha đàm đạo văn chương.

Sau tuần trà thứ hai buổi chuyện thơ bắt đầu. Lão Trần là một thi sĩ bất phùng thời. Lão yêu thơ và rất thuộc thơ Lý Bạch, Ðỗ Phủ(9) cũng như những nhà thơ danh tiếng khác của nước Trung Hoa cổ. Tôi thì nhớ lõm bõm, câu được câu chăng, luôn nhầm lẫn nhà thơ này với nhà thơ khác. Lão Trần rộng lượng không để ý chuyện đó. Tôi chẳng qua là cái cớ cho cuộc trở về với thơ của lão. Cứ mỗi bài thơ qua lão Trần lại biến đổi trước mắt tôi. Không phải là ông già lẩn thẩn quét rác nữa mà là một lão nho thư thái, ung dung tìm được phút giây hạnh phúc trong những vần thơ bất tử.

Tôi thích cách thưởng thơ của lão Trần. Lão có những lời bình độc đáo cho những vần thơ đa nghĩa khi người đọc chuyển dịch những dấu ngắt câu không có mặt trong thơ Trung Quốc. Sau mỗi bài thơ chúng tôi trịnh trọng mời nhau uống trà đặc sệt và chát xít đựng trong khúc nứa tép cắt ngắn và nhấm nháp mấy viên Polyvitamine vàng khè.

Ðại tá đặc vụ họ Trần thời trẻ là giáo viên dạy văn trung học. Vui chuyện, lão kể cho tôi nghe đời lão. Thì ra lão là nhân viên tình báo Trung Quốc thật.

– Bác công tác trong ngành tình báo được bao lâu?

Lão cười không có tiếng:

– Công tác khỉ gì đâu, thưa tiên sinh. Tôi chỉ ghi tên vào đấy thôi.

– Tức là…

– Có tên ở đấy coi như đã vào lính, hức. – lão bật nấc – Cái nghề tình báo có lợi là thế. Mình vẫn được là mình, hức, mà lại cứ như có mặt trong quân ngũ, Tôi vào được ngành này cũng là nhờ, hức, một người quen thân gia đình giới thiệu…

– Tôi chưa hiểu lắm…

– Thì để trốn lính mà. Tình báo tình biếc gì đâu, hức. Tháng tháng chỉ có việc ký vào giấy nhận lương là xong. Lương tôi đã có người khác lĩnh, hức, ai lĩnh tôi cũng không biết. Thế rồi tuần tự như tiến, hức, tôi được thăng cấp, được lên lương, cấp trên tôi không biết ai, cấp dưới tôi không có, đã bảo hoạt động tình báo mà. Thỉnh thoảng, hức, người ta còn bịa ra thành tích cho tôi nữa, để cho lương tôi tăng nhanh, họ được lĩnh nhiều thêm. Thời bấy giờ lạm phát đại phi mã, chắc tiên sinh còn nhớ…

Anh chàng đệ tử dài ngoẵng vội lết lại đấm lưng cho ông lão.

Tôi nhớ cái sự lạm phát ấy. Năm 1945, quân Tưởng vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật bại trận, mang theo hai thứ tiền: Quan kim và Quốc tệ, bắt người Việt phải tiêu. Tiền Quan kim còn có giá chứ tiền Quốc tệ thì chỉ đắt hơn giấy lộn chút ít. Ngày quân Tưởng sắp rút về nước, giá một bát phở gánh tương đương với một bị Quốc tệ. Những ông hàng phở bực dọc với khách Tàu phù(10) liền quẳng luôn vào bếp. Tiền Quan Kim in trên giấy tốt, rất đẹp, nhưng rồi cũng vứt đi. Nhóm bếp không được, nó cháy chậm và dễ tắt, còn kém cả tiền Quốc tệ. Mãi tới năm 1950 ở trong kho ẹy ban Tuyên Quang vẫn còn vài chục bao tải tiền Quan kim không biết dùng làm gì.

– Ðể theo kịp lạm phát, tôi được thăng cấp vèo vèo. Rồi Hoa quân nhập Việt, tôi được lệnh theo sang, ở Hải Phòng, vẫn làm giáo viên dạy văn trong trường trung học Trung Hoa. Tôi lấy vợ Việt Nam. Hoa quân rút, người ta chẳng gọi tôi, họ quên hay là họ mặc kệ không biết. Thế là tôi ở lại hẳn. Người Pháp đến, họ cũng chẳng đụng đến tôi. Người Trung Hoa chúng tôi rất dễ sống trên đất lạ, ông ạ – ở đâu có cỏ mọc, ở đó có người Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam tiếp quản Hải Phòng, tôi vẫn ung dung dạy học. Thế rồi chẳng biết ai báo cáo, tôi bị công an gọi…

– Bác nhận bác là đặc vụ?

– Vâng. Chối sao được khi người ta biết rồi. Tại sao người ta biết được tôi không hiểu. Chắc khi Hoa quân rút đi giấy tờ vương vãi thế nào đấy, một cái bảng lương chẳng hạn. Ông công an hỏi tôi người hiền lành lắm, tử tế lắm. Nghe tôi kể tình đầu ông chỉ cười khà khà rồi khuyên tôi phải khai báo thành khẩn để Ðảng xét. Tôi khai hết, chuyện là như thế như thế. – ông già cười, nhe hai hàm răng thủng lỗ chỗ – Tiên sinh nghĩ, phận mình là dân, cứ thật thà là hơn, người ta hiểu người ta sẽ cho về, giữ mình làm quái gì…

– Bác ở đây mấy năm rồi?

– Mười năm có hơn, thưa tiên sinh.

– Người ta xử bác mấy năm?

– Thiên nả(11)! Nào có được xử. Xử thì phải có tội mới xử được, đàng này tôi chẳng có tội gì…

Lão đại tá thở dài:

– Lẽ ra tôi nhận cái nhiệm vụ ở lại, để làm gì đấy…- ông ngẩn người, nghĩ ra một nhiệm vụ làm thí dụ, nhưng nghĩ không ra – tức là phải có một cái tội bé bé để người ta đưa ra xử. Nhưng tôi không biết, ngu quá! Không có tội ở chế độ ta khổ hơn có tội, tiên sinh ạ.

Tôi bàng hoàng. Chẳng lẽ đó là chuyện có thật? Nhìn vào mắt lão tôi tin lão không nói dối. Mà nói dối tôi phỏng có ích gì?

– Bác phải viết đơn khiếu nại chứ. Người này không tin còn có người khác.

– Tôi viết nhiều nhiều rồi đấy, nhưng chẳng có ai trả lời.

– Phải kiên trì, bác ạ.

– Vô ích mà, tiên sinh.

Lý Bạch, Ðỗ Phủ đã ba chân bốn cẳng chạy xa khỏi những chuyện thế tục kiểu này. Thời các vị luật pháp chắc không thế. Ðến đấy chúng tôi cũng ngừng buổi thưởng thơ.

Tôi đang bùi ngùi cho số phận lão Trần thì Dịp Pún Mằn la đà xách giỏ tới nhà B. Mọi người lập tức bâu quanh anh ta. Lão đại tá đặc vụ cử anh chàng dài ngoẵng leo xuống sàn đi trinh sát. Anh ta lôi Dịp Pún Mằn về. Dịp Pún Mằn leo lên tầng trên, ngồi vào chiếu lão Trần:

– Tài cố, hẩu ma(12)?

– Còn gì không, Dịp đệ?

– Cồn cố cồn cố nhều nhều.

– Bán cho tôi hết.

– Pán thì pán. Kho lồi có, cồn sống có.

– Kho rồi thứ gì?

– Cá trê a! Tố hảo sực(13). Ngôn nhều nhều.

– Tôi đãi khách, Dịp đệ à, không ngon không lấy đâu.

– Ðã pảo ngôn mà. Ngộ ăn cùng, tược chớ?

– Tốt. Biết tiên sinh đây không?

– Pết, pết lắm chớ.

-Tiên sinh ở đây dùng cơm với tôi, chẳng mấy khi. – lão Trần xoa hai tay vào nhau, trịnh trọng. – Chú Dịp kho cá ngon, lại vệ sinh lắm lắm nên mới dám mời tiên sinh.

Cứ như thể lão không biết cơm trại thế nào. Chúng tôi thường xuyên ăn cơm độn sắn với rau muống tần đại dương, thỉnh thoảng được thêm món ca la thầu(14). Ca la thầu do Trung Quốc viện trợ cho quân đội, quân đội không ăn được, mới chuyển cho tù. Một chiếc xe tải quân sự chở ca la thầu đến, thối um cả khu bếp trại. Ca la thầu được đổ vào trong một cái bể lớn, nhà bếp vớt ra cho trại ăn dần. Người nhà bếp không ai đụng đũa vào món ca la thầu. Có người nói rằng trong bể ca la thầu có cả xác chuột, nhưng tù vẫn ăn như thường, còn mút mát đàng khác – nó mặn vô cùng.

Tôi ăn bữa trưa ngon lành cùng với đại tá đặc vụ của một quân đội không tồn tại.

Lão Trần ra dáng phong lưu lắm. Tôi không cần phải quay về đội lĩnh cơm trại. Suất của tôi để cho Cao và Tôn Thất Tần. Ông đại tá sai đệ tử mua thêm ba suất nữa, gọi là ăn đúp. Ðồn rằng lão có hai cô con gái xinh xắn lấy chồng Việt, hai ông chồng lại là cán bộ lương thực thực phẩm, cửa hàng trưởng hay cửa hàng phó chi đó, tiếp tế cho cha khá lắm.

Nhân tiện, tôi hỏi chuyện Dịp Pún Mằn. Lão Trần cười hề hề:

– Dịp đệ kể cho tiên sinh nghe đi!

Dịp Pún Mằn chống đũa nhìn tôi, bẽn lẽn:

– Cố dề mà kể chớ! Hổi lồi mà, kể lồi mà.

– Thì cứ kể lần nữa đi! – lão Trần giục.

Bằng giọng ngọng ngoẹo, chỗ nào khó hiểu quá đã có lão Trần thông ngôn, Dịp Pún Mằn kể cho tôi nghe vụ án của anh.

Số là anh chàng Dịp Pún Mằn làm nghề cu-li bắt-tê(15). Cu-li bắt-tê ở Sáu Kho Hải Phòng toàn người Tàu, cha truyền con nối. Người Việt không làm nghề này, vì không làm nổi chứ không phải vì chê nó hèn. Người Tàu to con hơn, khỏe hơn. Với một cái móc sắt trong tay phu bắt-tê Tàu có thể quật lên lưng cả tạ hàng mà không cần ai giúp đỡ.

Một thủy thủ người Hoa làm việc trên tàu Hi Lạp làm quen với Dịp Pún Mằn trong một lần cập bến ngắn ngủi. Anh ta đưa tiền cho Dịp Pún Mằn, nhờ anh mua báo Việt Nam rồi gửi cho anh ta hàng tuần bằng đường bưu điện theo một địa chỉ ở Hồng Kông.

Dịp Pún Mằn nhận lời liền. Tính Dịp Pún Mằn thế, hay giúp đỡ. Tiền thì người ta đưa trước cả năm, lại đưa thừa chứ không thiếu. Từ cầu cảng về nhà có tới hai ba quầy báo và một trạm bưu điện. Mỗi hôm đi về Dịp Pún Mằn mua một loạt báo, tích lại đến cuối tuần ra bưu điện gửi. Còn có việc gì dễ hơn!

Ba tháng sau cuộc gặp gỡ định mệnh với ông bạn đồng hương, Dịp Pún Mằn bị công an tóm ngay tại trận với bó báo chăng kịp gửi rồi đưa thẳng về nhà giam. Người ta tra hỏi Dịp Pún Mằn: mua báo cho ai? để làm gì? địa chỉ gửi báo là của cơ quan gián điệp nước nào? đã gửi những thông tin gì ra ngoại quốc? bằng hệ thống mật mã nào?

Nói tóm lại, Dịp Pún Mằn hoa mắt trước những câu hỏi anh không hiểu nổi. Vốn tiếng Việt của anh quá nghèo. Họ hỏi anh sáu tháng liền. Câu nào Dịp Pún Mằn không trả lời được thì người ta gà cho anh. Chấp pháp ghi biên bản rồi đưa cho anh ký. Dịp Pún Mằn ký. Anh biết ký tên mình từ đó.

Hoàn cung, anh ra tòa. Bào chữa viên do tòa cử ra không cãi cho anh mà khẳng định ngay tội anh rất nặng – làm tay sai cho bọn đế quốc và bè lũ phản động quốc tế. Sau một hồi ca ngợi Ðảng và lên án bị can đủ điều ông ta mới xin tòa mở lượng khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị can vì bị can “thuộc thành phần nhân dân lao động, do kém giác ngộ nên bị gián điệp nước ngoài dụ dỗ, mua chuộc mà phạm pháp”. Ðược bồi dưỡng đến nơi đến chốn trong trại tạm giam rồi mà trước vành móng ngựa Dịp Pún Mằn vẫn run như cầy sấy. Anh đáp lại những câu hỏi của tòa bằng những câu trả lời đã thuộc lòng:

– Dà, túng thế (đúng thế)!

– Dà, khôông cốô sai!

– Dà, túng là dắn tệp cốôc tế lồi (đúng là gián điệp quốc tế rồi)! Túng lắm (đúng lắm)! Túng lắm!

Tòa thương tình ban cho Dịp Pún Mằn, người con của nhân dân lao động, mười lăm năm tù. Dịp Pún Mằn rưng rưng nước mắt chắp hai tay vái bào chữa viên rồi phát biểu trước tòa, bày tỏ lòng biết ơn của anh:

– Cấy Tảng Duỵt Nàn tốt nhều nhều (cái Ðảng Việt Nam tốt nhiều nhiều) lớ!

Khi tôi lên trại Tân Lập thì Dịp Pún Mằn đã ở được chín năm. Do an tâm cải tạo và chăm chỉ lao động anh được giảm án hai lần, chắc chỉ một hai năm nữa là được tha.

– Anh sắp về rồi, vui hả? – tôi hỏi Dịp Pún Mằn.

– Cố dề mà vui? Mềnh ở tâu cũng làm vệc, ổ Hẩy Phoòng cũng lầm vệc, ổ tây cũng lầm vệc à.

– Nhưng ở nhà thích hơn chứ.

– Khôông thếch tâu. Pá pá chếch lồi (chết rồi), má má dà nhều nhều (già lắm), lói khôông tược, khôông vui tâu. Mà ổ tây nhàn hơn nhều nhều…

Khi tôi sắp rời trại Tân Lập thì Dịp Pún Mằn được giảm án thêm một lần nữa. Mọi người xúm đến chúc mừng, còn anh thì lầu bầu:

– Về dà làm dề (về nhà làm gì), ổ tây cố pạn (có bạn) nhều nhều, về dà pây dờ ổ vấy ai? Má má mình sắp chếch lồi. Êm cấy (em gái) lấy chồông ổ nhà chồông, không ổ tược vấy ló tâu…

Có những con người như vậy: họ ra đời để chịu lầm than. Họ sống trong lầm than như trong lẽ tự nhiên của trời đất, chẳng kêu ca, chẳng phàn nàn. Cái số nó vậy, biết làm sao, họ nói. Trong đời tù của tôi không phải Dịp Pún Mằn là người duy nhất có thái độ dửng dưng đối với sự tù oan. Có người còn oan hơn anh nhiều. Anh có thể là gián điệp quốc tế lắm trong sự hình dung nghèo nàn của những cái đầu ngốc nghếch với tinh thần cảnh giác cách mạng quá cao.

Một số người được tha không về nữa mà xin ở lại trại. Ðó là những người không có đâu để mà về, những người đã chán ngán đến tột độ cuộc đời cũ. Không có “tiêu chuẩn” được ở trong trại nữa, họ xin đất trại dựng nhà để sống cuộc sống đã trở thành quen thuộc, thỉnh thoảng lân la tới khu vực trại để mua bán đổi chác với tù tự giác.

Buổi chiều trước hôm tôi bị chuyển đi trại Phong Quang, Dịp Pún Mằn tìm tôi, giúi cho tôi một lạng trà tự biên tự diễn:

– Mai chuển trại tấy! Chắc chắn mà! Anh cầm xà lày (trà này) mà ôống. Lênh chỗ mới, khôông kếm tợc xà ngay tâu. Hôm lay các ôông cán pộ xếp hồ sơ nhều nhều, là ti tấy…

– Anh ở lại mạnh khỏe nhé!

– Anh nhớ trôông pác Trần. Pác ấy íu (yếu) lắm, khôông pết cồn sống tược pao lâu.

– Tôi sẽ săn sóc bác ấy!

– Hảo lớ!

Nhưng đại tá tình báo gặp may. Ông không bị chuyển đi cùng với chúng tôi. Ông được ở lại với gián điệp quốc tế.

(1) Chỉ điểm, mật thám. Từ tên một nhân vật phản diện trong cuốn Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo.

(2) Trên lưng áo của người tù người ta in hai chữ CT (Cải Tạo) bằng hắc ín. Áo của toán trưởng cũng bị in chữ nhưng anh ta tẩy đi, để phân biệt mình với tù thường. Cán bộ biết nhưng không khiển trách, coi đó là đặc ân dành cho anh ta.

(3) Trại tập trung với 3 đặc điểm: 1/ người bị giam không được xét xử, 2/ thời hạn giam giữ là tùy tiện, 3/ chế độ giam giữ, trừng phạt là tùy tiện, xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ 19. Người Tây-ban-nha đã lập các trại tập trung tại Cuba từ năm 1898, người Anh đã lập các trại tập trung giam 20.000 người mà đa số là đàn bà và trẻ em tại Nam Phi. Tại Mỹ 70.000 công dân Hoa Kỳ gốc Nhật và 42.000 người Nhật định cư tại Mỹ bị dồn vào những trại tái định cư trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II… Tại Liên Xô, trại tập trung được lập ra từ năm 1918 để giam giữ những “kẻ thù bên trong”, hệ thống trại tập trung này đặc biệt phát triển trong thập niên 30-40. Tại Ðức, nhà nước Quốc Xã sau khi giành được chính quyền năm 1933 lập tức thiết lập hệ thống trại tập trung với chế độ giam giữ hà khắc và sự thủ tiêu tàn bạo nổi tiếng thế giới.

(4) Trong nghĩa cửa hàng tạp hóa quốc doanh.

(5) Thường mỗi năm một lần trại tổng điểm danh tù để kiểm tra lại hồ sơ.

(6) Khi nói toàn trại, tôi gộp cả các phân trại khác vào đấy.

(7) Gàn, khùng,dở người (tiếng Pháp).

(8) Tù tự giác chuyên hái lượm lâm thổ sản và trông đồi chè của trại. Trà “tự biên tự diễn” có nghĩa không phải trà do quốc doanh sản xuất mà do tù hái và sao thủ công.

(9) Lý Bạch (chết năm 762), Ðỗ Phủ ((712-70), hai nhà thơ lớn của Trung Hoa cổ đại.

(10) Gọi là Tàu phù vì quân đội Tưởng vào Việt Nam gồm dân đói ở Lưỡng Quảng, lê lết vì phù thũng.

(11) Trời ơi! (tiếng Trung Quốc).

(12) Ðại ca, khỏe chứ? (Tiếng Trung Quốc).

(13) Rất ngon (tiếng Trung Quốc)

(14) Xu hào muối, tên gọi Trung Quốc đã Việt hóa.

(15) Phu khuân vác.