Chương 24

Tôi bị cả Huỳnh Ngự, cả Hoàng, bỏ quên suốt tuần lễ cuối năm âm lịch.

Thành rầu rĩ. Anh nhớ vợ nhớ con. Ðã lâu không nhận được thư nhà, anh lo lắng, không hiểu có chuyện gì xảy ra cho cái gia đình bé nhỏ của anh, nó đang phải chịu những cơn sóng gió nào? Mà sóng gió thì bao giờ cũng sẵn cho những gia đình bất hạnh có người thân ở tù.

Thành buồn làm tôi buồn lây. Gia đình Thành gặp khó khăn một thì gia đình tôi ắt khó khăn mười. Vợ tôi sẽ gặp nhiều gian nan lắm đây, gian nan như thế nào tôi không hình dung được, nhưng đó là điều nhất thiết sẽ xảy ra, không thể không xảy ra(1).

Không khí Tết luồn vào tận trong các xà lim. Tết đối với người Việt ở nơi nào cũng vẫn là Tết, cho dù họ đang ở dưới đáy vực cuộc đời. Thông thường, vào những ngày giáp Tết, ở xà lim hay ở trại chung cũng vậy, người tù nhận được “quả tắc đậm”, nghĩa là quà tiếp tế lớn hơn, nhiều thứ hơn so với trong những lần tiếp tế bình thường. Trong ngày Tết, đối với tù người ta khoan dung hơn, độ lượng hơn. Tù kỷ luật được tha cùm, ai bị cắt tiếp tế nay được phép nhận trở lại. Tết mà!

Người tù xà lim thiếu thốn đủ thứ, thèm khát đủ thứ, cái gì đối với anh ta cũng quý, cũng là cái mơ ước, thành thử biết gia đình mình chẳng sung túc gì anh ta vẫn cứ ngóng đợi tiếp tế như thường. Tiếp tế trong dịp Tết lại càng quan trọng, bởi vì hơn mọi đợt tiếp tế bình thường nó chứng tỏ lòng thương nhớ của người bên ngoài. Lòng người tù dịu đi khi ôm bọc tiếp tế trong tay, anh ta xúc động ăn những món ngon lành, hợp khẩu vị do mẹ mình, vợ mình, con mình nấu cho, anh ta sung sướng thấy mình không bị bỏ rơi.

Khu xà lim chúng tôi nhộn nhịp hẳn lên. Nói nhộn nhịp là nói phóng đại lên cho vui, chứ nó là cái sự nhộn nhịp không ồn ào, cảm thấy được chứ không nghe thấy được. Cái khác ngày thường là ở chỗ chốc chốc lại có cửa mở ra, đóng vào, nhát nhát lại có tiếng chân người rậm rịch đi về trong yên lặng tịch mịch muôn thuở của nhà mồ. Ðó là tù đi gặp gia đình, đi lĩnh tiếp tế. Trong những ngày giáp Tết hiếm có trường hợp tù đi cung. Những người tù xà lim lợi dụng cán bộ quản giáo lơ là – ai mà chẳng bận bịu với gia đình mình khi năm hết Tết đến – làm hiệu cho nhau ở ô cửa kiểm tra, thậm chí thậm thụt gọi với sang nhau, hỏi thăm nhau vài câu. Vẳng tới tận xà lim tiếng dao thớt rộn ràng.

Tôi biết chắc sẽ chẳng nhận được quà gia đình, kể cả thư. Tôi là người mất tích mà. Gia đình tôi chắc chắn không được báo tin tôi ở đâu.

Cuối cùng Thành rồi cũng được gọi ra. Loáng sau anh đã về, lỉnh kỉnh gói bọc.

Mặt hầm hầm, Thành quăng cả đống lên phản.

– Sao thế?

– Chúng nó cho nhận tiếp tế, nhưng không cho gặp gia đình.

Lần đầu tiên anh gọi công an bằng chúng nó.

– Mọi khi anh vẫn được gặp mà.

– Lần này không.

– Lý do?

– Chúng nó chẳng lý do lý trấu gì hết. Không cho là không cho.

– Ít nhất thì chúng nó cũng phải cho biết vì sao chứ. Anh có bị kỷ luật gì đâu?

– Chúng nó không giải thích.

Thành nằm vật ra, tay vắt trên trán.

Tôi đành phải thu dọn đồ tiếp tế cho anh. Bọn mất dạy. Cái bánh mì bị bẻ thành nhiều mẩu. Thịt kho tàu đổ lẫn với ruốc. Kẹo nhiều, chúng không bóc hết, chỉ bóc một số ngẫu nhiên. Những cái kẹo không còn giấy bọc nhơm nhớp dính vào nhau. Cứ nghĩ đến những bàn tay nhơ bẩn đã lục lọi mà tởm.

Ðêm, Thành không ngủ. Tôi cũng thao thức. Khi tôi nói có lẽ do tôi ở cùng anh cho nên chúng khám kỹ, lại không cho anh gặp gia đình, thì Thành im lặng hồi lâu.

– Ðừng nghĩ lẩm cẩm. – anh gạt đi – Tôi có được chọn người ở cùng đâu. Cậu cũng vậy. Chúng nó cho tôi ở cùng cậu chứ không ở cùng một tên cướp của giết người là tôi đã phải cảm ơn chúng nó rồi.

Chiều 30 Tết, tưởng không còn ai được gọi ra nữa, tôi đang ngồi đánh cờ với Thành thì cửa xịch mở, Sứ giả hòa bình ngoắc ngoắc tay gọi tôi ra đi cung.

Trời rét. Xoa xoa hai tay vào nhau, người cóm róm để chống lại cái lạnh cắt da ở miền Bắc Huỳnh Ngự run rẩy đón tôi ở cửa. Trong bộ dạ đen Tôn Trung-sơn làm cho nước da đã tái càng thêm tái, trông y giống một công chức nghèo trong những phim nói về thời kỳ tiền cách mạng Trung Quốc.

– Ở trỏng ra sao, đủ ấm chớ? Bữa ni rét dữ, hè?- y vui vẻ và run rẩy hỏi tôi thay lời chào.

– Cảm ơn, tôi chịu được. – tôi đáp, lịch sự vừa đủ, không lạnh nhạt mà cũng chẳng nhiệt tình.

Chúng tôi lẳng lặng ngồi đối diện trong tuần trà. Trời rét, uống trà nóng thật đã. Tôi bắt gặp trong tôi nỗi thèm muốn thật đơn sơ, thật khiêm tốn – được nhàn tản uống trà như thế này mỗi ngày.

– Bữa ni tui gọi anh ra là để thay mặt cơ quan chúc Tết anh. – yên vị rồi, Huỳnh Ngự cất giọng trịnh trọng – Chúc anh chi bây chừ, hỉ? Hè hè, tôi chúc anh cải tạo tốt để mau chóng trở về trong lòng Ðảng…

Nghe đến cải tạo tốt tôi đã sôi máu, nhấp nhổm định phản bác. Huỳnh Ngự vội xòe bàn tay gày guộc ra ngăn lại:

– Tôi nói thế có đúng không: mỗi chúng ta, hàng ngày, hàng giờ phải tự cải tạo mình để theo kịp bước tiến vũ bão của cách mạng, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cách mạng…

Xem ra y cũng vụng chèo khéo chống chẳng kém gì tôi.

Y rút bao Thăng Long, mời tôi một điếu. Tết có khác.

– Nhân dịp đầu Năm Mới cơ quan gởi cho anh chút quà mừng Xuân.

Cơ quan gửi quà cho tôi ư? Anh em tự động hay công an gợi ý? Và người ta cho tôi nhận?

Huỳnh Ngự lúi húi lấy quà Tết đặt lên bàn, ngay trước mặt tôi – bánh chưng, hộp mứt, gói kẹo… Lúc ấy tôi mới để ý – đàng sau bàn làm việc là một ghế ngựa, trên đó xếp hàng chồng quà khác, giống hệt phần quà cho tôi. Không phải quà của cơ quan tôi rồi.

– Anh em trong cơ quan chẳng có gì hơn đâu – Huỳnh Ngự nói bằng giọng phân trần – tụi tui cũng như anh thôi, mỗi người một bánh chưng, một hộp mứt, một gói thuốc, một gói trà…

Vào những năm ấy tiêu chuẩn Tết cơ quan lo cho cán bộ, công nhân viên cũng đến thế là cùng. Mà ấy là cơ quan Trung ương, chứ cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện tiêu chuẩn Tết còn thanh đạm hơn nhiều.

Có nên nhận hay không, tôi nghĩ?

Không thấy Thành nói tới lệ cho tù quà Tết. Lại đặc biệt rồi. Các anh là cán bộ mắc sai lầm, Ðảng bao giờ cũng nhớ tới công lao của các anh, Ðảng bao giờ cũng phân biệt các anh với các loại tội phạm khác – họ vẫn nhai nhải như thế. Hãy yên tâm mà ở tù, để được xúc động trước tấm lòng ưu ái Ðảng dành cho, tôi cay đắng bổ xung.

Tôi quyết định nhận quà. Những thứ này đâu phải của họ, của nhân dân cả, tội gì không lấy. Tôi không lấy, Huỳnh Ngự sẽ lấy, hoặc đàn em y sẽ lấy. Tôi đã dùng quá nhiều đồ tiếp tế của Thành. Có gì gia đình gửi vào anh cũng xẻ cho tôi. Tôi có một chút góp vào vẫn hơn.

– Tôi xin cảm ơn cơ quan Công an đã cho quà…

– Không, không phải quà của cơ quan Công an. – Huỳnh Ngự bối rối cải chính – Ðây là quà của Ban Tổ chức Trung Ương.

– Thế thì tôi xin cảm ơn Ban Tổ chức Trung Ương.

– Anh không chúc lại à?

– Có chứ. – tôi lạnh lùng – Tôi chúc Ban Tổ chức Trung Ương mau chóng xem xét và giải quyết vụ án của chúng tôi một cách quang minh, chính đại, cho hợp pháp, hợp hiến… Ít nhất thì cũng đúng với tinh thần và lời văn những gì tôi đã được nghe phổ biến.

Mặt Huỳnh Ngự đanh lại. Tôi không hiểu lúc ấy y đứng ở cương vị nào, người của Bộ Nội Vụ hay của Ban Tổ chức Trung Ương, hay của cả hai cùng một lúc?

Tôi về. Huỳnh Ngự giữ lại gói trà, nói trong xà lim không có nước sôi, tôi sẽ dùng sau, trong những lần ra làm việc.

Thành vui vẻ đón tôi:

– Có quà nhà gửi vào à?

Ðợi cho cửa xà lim đóng lại, tôi mới trả lời:

– Quà nhà đâu. Họ cho đấy.

– Ai? Ai cho?

Tôi kể cho anh nghe chuyện Ban tổ chức Trung ương gửi cho chúng tôi quà Tết.

Chúng tôi ăn một bữa vui vẻ. Trong xà lim không thể để dành thức ăn. Chuột xà lim rất hỗn. Thành tỉnh thức, một tiếng động nhẹ đủ làm anh bật dậy, thế mà có đêm anh mới ngủ quên một lát chuột đã mò lên cắn thủng cái áo bông anh bọc gói bánh quy.

Trong nhà tù, chuột là một thứ cư dân hết sức đáng ghét. Chúng chẳng nể ai.

Có trải qua nhà tù tôi mới thấy mình cần phải thay đổi cách nhìn đối với các sinh vật. Chẳng hạn, chuột không ngu một chút nào như ta thường nghĩ, tôi dám đánh cuộc như vậy.

Tôi xin kể chuyện này làm thí dụ. Xà lim Hỏa Lò kín lắm, gió vào còn khó, nhưng chuột thì lại ra vào thoải mái. Lối vào của chúng là lỗ thoát nước ở chân tường. Tù xà lim được phát mỗi người một bô, nhưng người ta lười tè luôn vào lỗ ấy. Người sạch tiểu xong thì dội nước (nếu anh ta có nước trữ), người bẩn thì không. Thành kể khi anh mới bị đưa vào phòng này, mặc dầu nó đã được quét dọn, mùi khai thối vẫn nồng nặc, đêm không ngủ được. Anh phải cọ rửa nhiều lần phòng mới được như bây giờ.

Trong số chuột quen thói mò vào xà lim, chúng tôi căm thù nhất con chuột già.

Những người tù lâu năm nói rằng chuột Hỏa Lò chưa là cái gì. Chuột ở nhiều trại khác còn tệ hơn nhiều.

Mấy ngày Tết là mấy ngày chúng tôi được ăn no. Suất cơm ngày thường ăn vèo cái đã hết. Suất ăn ngày Tết có buồng còn để thừa. Trong những ngày đầu tiên rơi vào đây, tôi không thấy đói, nhưng sau đó chừng một tháng thì đói không chịu được. Thành nói khi mới vào người tù không thấy đói vì hai lý do: thứ nhất, nỗi lo lắng cho số phận làm tê liệt mọi cảm giác; thứ hai, trong người còn một số năng lượng dự trữ. Trong tôi lực lượng dự trữ chắc cũng khá, bắt đầu từ tháng thứ hai trở đi tôi mới thấy cái dạ dày luôn nhắc tôi nhớ đến nó.

Trong cái chuồng chật hẹp người tù không thể kiếm nổi bất cứ một thứ gì khả dĩ bỏ bụng, cho dù bản năng kiếm mồi chưa thui chột. May cho tôi, đúng vào lúc ruột gan cồn cào nhất Thành lại giở kho thức ăn dự phòng ra rủ tôi cùng ăn, khi cái bánh quy, khi mẩu đường phên. Thành đúng là thuyền trưởng gang thép của con tàu mắc cạn trên hoang đảo – anh chỉ tự cho phép mình dùng chút một trong số lương thực ít ỏi mà anh có, hào phóng chia sẻ cùng tôi. Tuy nhiên, đề phòng tôi không chống nổi sự cám dỗ, anh cất nó rất kỹ, tận trong cùng bọc quần áo, thậm chí khi bất thình lình bị gọi đi cung anh còn kín đáo đánh dấu đồ đạc. Sau thấy tôi là một thủy thủ có kỷ luật, anh mới thôi dè chừng. Tôi buồn vì chuyện đó, nhưng suy đi nghĩ lại, tôi thấy anh đúng. Trong xà lim con người đánh mất mình như bỡn. Thành từng ở chung với một anh chàng cán bộ cấp bậc không đến nỗi xoàng, nhưng ăn vụng như chảo chớp.

Chẳng cứ tù mới đói. Chính sách kiểm soát dạ dày của người dân là một chính sách nhất quán của các triều đại tổng bí thư mà tôi sống qua. Dân no thì hỗng, dân đói dễ trị. Cho nên, người dân bao giờ cũng phụ thuộc họ bởi nhiều sợi dây tam cố, mà sợi dây chủ yếu trong giai đoạn đó là chính sách lương thực, thể hiện rõ nhất trong phiếu gạo. Người nông dân làm ra thóc gạo, được bao nhiêu phải bán cho Nhà nước. Sau khi làm nghĩa vụ xong có thừa chút đỉnh đem bán ra ngoài cũng phải bán chui, bởi vì như thế là vi phạm chính sách lương thực.

Lớp cán bộ ở thành phố sống trông vào phiếu gạo. Nhà thơ Quang Dũng(2) to lớn gấp đôi tôi, chỉ được hưởng phiếu gạo 13,5kg/tháng, trong khi tôi còn được phiếu 15kg, tiêu chuẩn phóng viên. Nói tóm lại, tác giả những bài làm nức lòng quân sĩ một thời chẳng được ưu đãi gì hết. Anh than thở: “Lắm bữa mình ngon miệng, bà vợ thương quá, cứ xới cho liên chi hồ điệp, mình thì cứ hồn nhiên xơi mãi, chẳng biết là mấy bát. Sực nhớ ra, mới vội dừng lại. Chao ôi, nhìn các con mà thẹn. Cứ như thể mình ăn thâm vào phần chúng nó vậy”. Anh gặp may trong một lần đi thâm nhập thực tế với mấy nhà lãnh đạo Tổng cục lương thực, vào năm 1960 hoặc 1961. Trong một bữa chiêu đãi, thấy anh làm liền tù tì mười bát mà vẫn còn thòm thèm, ông cán bộ Tổng cục mới hỏi anh ăn được như vậy thì tiêu chuẩn anh bao nhiêu. Khi biết Quang Dũng chỉ có 13,5kg, ông thương tình, ra lệnh đặc biệt cho anh được đổi sang phiếu 21kg. Cho anh tiêu chuẩn cao hơn nữa ông không có quyền. Quang Dũng kể chuyện này cho tôi nghe, cười hì hì: “Bình thường mình cũng chẳng ăn nhiều đến thế đâu, ăn ít quen dạ rồi, nhưng hôm đó phải ra sức biểu diễn một đường hào hùng cho các vị thấy. Mới được cái phiếu 21 ký ấy chứ”. Tôi hỏi nếu thả cửa anh ăn được bao nhiêu bát, anh nói cái đó còn tùy thức ăn nhiều hay ít, ngon hay không ngon, và ai là khổ chủ dám liều mạng thết anh một bữa ăn mặc sức như thế.

Dù có thể ăn no trong mấy ngày Tết Thành vẫn cương quyết hạn chế cả hai: “Ăn ở đây mà bội thực còn khổ nữa. Không thể “Báo cáo ông quản giáo, cho tôi xin thuốc tiêu!”. Họ không cho thì chớ, còn nhiếc móc cho đã đời, vuốt mặt không kịp đấy”. Trong mấy ngày đầu năm đã xảy ra chuyện đúng như vậy. Chúng tôi nằm dài trên phản nghe tiếng quản giáo Hách sang sảng dạy bảo đám tù khốn khổ chỉ vì tội hạnh phúc đến với họ quá dồn dập và họ không chống cự nổi sự cám dỗ quá mạnh mẽ. Tiếng người nói to trong xà lim im ắng âm âm như tiếng cha xứ giảng đạo trên tòa cao nơi giáo đường.

Chúng tôi choàng tỉnh giữa đêm khuya vì tiếng loa quá lớn. Vang vang giữa những trào sóng giao thừa là tiếng phát thanh viên đọc thơ chúc Tết. Ðã thành lệ, năm nào Tết đến đài Tiếng nói Việt Nam cũng truyền đi thơ chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn nhớ Tết năm trước gia đình chúng tôi quây quần bên ban thờ tổ tiên, thoảng trong khói pháo giao thừa có mùi hoa thủy tiên, hoa huệ, cha tôi lầm rầm khấn khứa, mẹ tôi đứng sau, sau nữa là chúng tôi, bên ngoài nhà chúng tôi là cả một Hà Nội râm ran tiếng pháo, tiếng quốc thiều, giọng sang sảng của người đứng đầu cả nước bay trong sóng điện.

Tết năm nay gia đình tôi tan tác. Cha tôi đêm nay nằm ở xà lim nào, trong cơn đau không người chăm sóc? Mẹ tôi chắc đang lặng lẽ chảy nước mắt thương chồng thương con. Còn cái gia đình nhỏ của tôi nữa, giờ này chắc vợ tôi đang ôm hai đứa nhỏ trong lòng, đang sụt sùi khóc cho đời mình và cho hai đứa con còn nhỏ đã mất cha?

Nhờ Ðảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn sự vật sáng rõ đến thế. Tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bề ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.

Cũng nhờ Ðảng tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại có thể mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm khó khăn gian khổ bị Lê Ðức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ để tìm hiểu ngọn nguồn?

Trước khi bị bắt, tôi có gặp ông Hoàng Quốc Thịnh, bộ trưởng Bộ Nội thương. Ông Thịnh kể mới đây ông vào Chủ tịch phủ báo cáo với ông Hồ Chí Minh về công tác thương nghiệp. Ông hỏi ông Hồ chuyện cha tôi vì sao bị bắt thì ông Hồ ngơ ngác: “Tại sao lại bắt chú Huỳnh? Chú ấy làm chi mà bắt?”. Trong tình bạn với cha tôi, Hoàng Quốc Thịnh là người chung thủy. Ông im lặng, như mọi người hồi đó đều phải im lặng trước Lê Ðức Thọ, nhưng từng hoạt động với cha tôi quá lâu, từng ở tù cùng cha tôi, ông không thể tin những lời bịa đặt của Thọ. Vậy là trước đó ông Hồ không biết cha tôi bị bắt? Hay ông biết mà giả vờ không biết? Giả thử ông không biết thật thì nghe ông Hoàng Quốc Thịnh nói rồi ông phải biết chứ. Biết rồi, nhưng ông cũng có làm gì đâu. Sự thật ở chỗ nào? Ông Hồ bị tước bỏ mọi quyền hành hay ông còn quyền hành nhưng ông làm ngơ?

Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy ngẫm. Trong những điều tôi suy ngẫm, có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ Chí Minh mà thế hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải.

Chúng tôi sùng bái ông bởi đạo đức vô song của ông. Chúng tôi coi ông là người tốt nhất trong mọi người. Ông là người duy nhất rũ sạch được mọi toan tính cá nhân để chỉ sống cho Tổ quốc, cho đồng bào. Không gia đình, không tài sản, không công danh.

Nhưng không phải thế.

Người ta ca ngợi ông Hồ ông đi sâu đi sát, việc nhỏ việc lớn đều được ông để mắt đến. Vậy những gì đã xảy ra dưới thời ông trị vì? Ðã có bài học giảm tô giảm tức, tại sao còn có sai lầm Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức(3)? Chẳng lẽ người thông minh như ông lại không biết vụ Nhân văn – Giai phẩm là do Trường Chinh dựng nên để chạy tội, bức hại nhiều văn nghệ sĩ có tâm huyết với dân tộc, từng theo ông suốt cuộc kháng chiến chống Pháp? Tôi nghĩ ông phải biết. Cha tôi kể ông rất chăm đọc báo chí hàng ngày, ai đến làm việc với ông cũng được ông hỏi han đủ chuyện, chẳng lẽ ông không biết gì về việc vừa xảy ra? Tôi nhớ một hôm cha tôi đi gặp ông trở về, bảo tôi: “Con vừa viết cái gì mà hôm nay bố đến chơi, Ông Cụ kêu “thằng Hiên viết truyện trên tờ Văn Nghệ, nó định nói cái chi tôi không hiểu”. Thì ra đó là ông Hồ đã đọc truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ(4) của tôi mà cha tôi chưa đọc. Một việc cỏn con như thế ông còn biết nữa là.

Tôi từng là một trong những đứa cháu gần gụi của ông trong những năm đầu cách mạng. Những ngày ông phải lẩn trốn bọn Tàu Tưởng, luôn thay đổi chỗ ở, ông từng ngủ ở nhà tôi, hai bác cháu chung giường. Mẹ tôi lo lắng cho sức khoẻ ông, bà thường làm các món tẩm bổ cho ông ăn khi ông mới từ chiến khu về Hà Nội, cha tôi phải xách cặp lồng vào Bắc bộ phủ hàng ngày cho ông, chẳng lẽ ông không nhớ?

Ai cũng biết nếu ông nói “không được” thì chắc chắn bọn Duẩn – Thọ sẽ phải chùn bước trước việc bắt bớ hàng loạt người cộng sản vô tội.

Nhưng ông im lặng.

Bây giờ tôi mới hiểu: thì ra con người đối với Hồ Chí Minh chẳng là cái gì. Ông mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, sao vàng năm cánh mộng hồn quanh(5). Con rồng, ai cũng biết, là biểu tượng của nhà vua. Ông mơ cưỡi nó thì ông đâu phải là một người trong chúng ta. Than ôi, lũ dân thường chúng ta làm gì có những giấc mơ như thế. Chúng ta chỉ mơ thấy cưỡi trâu, cưỡi bò, cưỡi ngựa. Sang lắm thì cưỡi bình bịch là cùng. Lẽ ra tôi phải hiểu sớm hơn mới phải: bác Hồ của tôi từ lúc đang phải sống lẩn lút để làm cách mạng đã ôm ấp mộng ước làm vua. Ông có chí lớn để thực hiện nó. Và ông đã thực hiện được.

Con người là vốn quý nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Stalin cũng nói thế. Mao Trạch-đông cũng nói thế.

Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn, nó thôi là Người.

Trong hành xử ông là một diễn viên kỳ tài, như sau này tôi được biết. Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức tường công xã Paris ở nghĩa trang Père Lachaise (1946), có các quan chức Pháp tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt. Trở về khách sạn, cha tôi hỏi làm sao ông khóc được, ông trả lời: “Mình làm chính trị, khi cần khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ”. Cha tôi có ghi lại việc này trong hồi ký “Tháng Tám cờ bay”, được báo Văn Nghệ in phần đầu trong năm 1994.

Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu: ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép. Vì lòng kính trọng đối với ông, không muốn rồi đây người xem sẽ nhận ra trên màn ảnh lớn diễn xuất lộ liễu, tôi tắt máy. Nghe tiếng cái Eymo 35 đang kêu xè xè đột ngột im tiếng, ông ngẩng lên nhìn tôi, nhưng ngay đó ông hiểu ra. Có lẽ vì thế mà sau tôi thấy ông không bực bội với tôi.

Một thời gian dài, bằng nhiều thí dụ cụ thể trong cách xử thế của ông Hồ, người ta không ngớt tán tụng tính cách bạt thiệp của ông, nghệ thuật ứng xử tuyệt luân của ông, để rồi, trong khi học tập ông họ luyện cho mình thói quen đạo đức giả lúc nào không biết.

Tôi được đọc khá nhiều về Stalin, Mao Trạch-đông, Kim Nhật-thành, Ceaucescu… Mới thấy chúng ta còn may lắm – Hồ Chí Minh của ta hơn hẳn họ về lòng nhân ái. Nếu không phải ông mà là họ, chắc chắn tấn bi kịch xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã lớn hơn nhiều. Và riêng tôi, hẳn đã đi tù sớm hơn, hoặc đã chết trong tù, nếu như không bị bắn tắp lự. Tôi cho rằng sự biết ơn người có quyền giết mà không giết mình cũng là cái nên có trong lòng chúng ta.

Cuộc chia tay với thần tượng không nhẹ nhàng gì. Cần phải là người trong cuộc mới hiểu được chuyện đó. Cái giá tôi phải trả cho cuộc chia tay đắt lắm.

Ông Hồ cũng có bi kịch của chính ông. Tôi hi vọng rồi đây sẽ có người viết về những bi kịch đó. Những bi kịch xảy ra khi ông còn trẻ, ở xa tổ quốc. Những bi kịch khi ông về già, ngay trên đất đai quê hương. Tôi rất muốn tin những gì người ta đã viết về ông là đúng. Ðó là những mặt tốt của ông. Chúng có thật. Có nhiều. Ở đây tôi chỉ kể ra những gì tôi nhận xét trong mối quan hệ giữa ông và tôi, những ý nghĩ của riêng tôi về ông trong khi rà soát lại mối quan hệ với chủ thuyết ông mang về từ nước ngoài làm quà tặng cho dân tộc, trong đó có phần dành cho tôi.

Ông chỉ là một con người, như mọi người, với những cái tốt và những cái xấu, những mặt mạnh và những mặt yếu, mà mỗi cá thể người phải có. Chính chúng ta sai khi nhìn ông như thánh nhân.

Tôi nhớ năm 1946, tôi thường ra vào Bắc bộ phủ và được gặp ông Hồ Chí Minh nhiều nhất, do cha tôi làm việc và ở sát với ông. Ðó là năm sóng gió nhất của chính quyền cách mạng. Nạn đói do thực dân Pháp và phát-xít Nhật gây ra(6) giết chết hơn hai triệu người để lại những hậu quả nặng nề. Ngoài Bắc quân Tưởng Giới-thạch tràn sang, trong Nam quân Anh-ấn kéo vào, theo chân họ là quân đội Pháp lăm le chiếm lại Ðông Dương màu mỡ(7). Những người Quốc dân đảng biểu tình, mít tinh, phát truyền đơn, bắc loa điện ở đường Quan Thánh ra rả suốt ngày chửi Hồ Chí Minh bán nước. Họ giết các chiến sĩ tự vệ thành, cả dân lành, rồi chôn trong một trụ sở ở đường Ôn Như Hầu. Họ bắt cóc rồi thủ tiêu ông Trần Ðình Long, ông Nguyễn Văn Phúc, biệt hiệu Phúc ghẻ, cả hai là bạn tù Sơn La của cha tôi. Tôi cũng nghe nói có những vụ Việt Minh giết người của Quốc dân đảng, tuy bản thân chưa được thấy vụ nào. Nhưng tôi tin tất cả những sự kiện đó là có thật, cũng như sự kiện này là có thật: chính những người cộng sản đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tháng Tám chứ không phải là một sự tranh công của các đảng phái khác như có một số tác gia đã viết.

Trong những ngày nước sôi lửa bỏng như thế, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn điềm tĩnh ngồi trong phòng làm việc trên tầng hai Bắc bộ phủ. Ông như một thuyền trưởng can trường, bình tĩnh chỉ huy con tàu trong cơn bão.

Tôi còn nhớ cha tôi lo lắng thế nào khi ông Hồ Chí Minh bị Lư Hán và Tiêu Văn giữ lại trong lần ông thân tới hành dinh quân Tưởng để đàm phán. Nhưng trở về Bắc bộ phủ Hồ Chí Minh vẫn là Hồ Chí Minh – tự tin và ung dung, như không hề có chuyện gì xảy ra. Thỉnh thoảng ông ló đầu ra ngoài hành lang – tôi hay quanh quẩn ở đấy, gọi tôi vào, giao cho tôi mấy mảnh giấy nhỏ để tôi chạy xuống đưa cho các chú các bác ở tầng dưới, hoặc đang chờ ở phòng cảnh vệ. Từ trong phòng làm việc của ông, bao giờ cũng tối bởi sàn lim và những đồ gỗ sẫm màu, tôi nghe tiếng bánh xe hơi chạy rào rào trên sỏi. Hồ Chí Minh bỏ bàn viết chạy đến bên cửa sổ. Từ tay ông bay ra một mẩu giấy nhỏ. Nó đung đưa trong gió làm cho người đứng dưới vồ trượt nhiều lần. Vồ được, người đó vội vã đọc lướt qua, rồi nhảy lên xe, Chiếc xe lại rào rào phóng thẳng ra cổng. Ðó là ông ra lệnh chuẩn bị những kho muối cho cuộc kháng chiến chưa biết chừng xảy ra lúc nào. Tôi nhớ rõ hình ảnh ấy và tôi nghĩ nó sẽ đắt trong một bộ phim nói về năm 1946 hào hùng.

Lúc đó ông Hồ Chí Minh còn là Bác Hồ tôn kính, Bác Hồ yêu mến của tôi.

Ông mở đầu pho sử hoành tráng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại chế độ thuộc địa toàn cầu, với tư cách một phong trào, chứ không phải cuộc đấu tranh của riêng một Việt Nam. Trận thắng Ðiện Biên phủ đã thổi vào lòng các dân tộc bị trị niềm phấn khích chưa từng có, mở ra cao trào đấu tranh cho độc lập dân tộc trên khắp thế giới, thúc đẩy sự chấm dứt chế độ thực dân, làm tan rã hệ thống thuộc địa. Thế giới biết tên ông cùng với tên đất nước nhỏ bé dám dùng gậy tầm vông chống lại vũ khí hiện đại để giành độc lập, tự do.

Tượng đài cho ông, với tư cách nhân vật lịch sử, đã được đúc.

Nhưng tôi buồn. Tôi còn tiếc nữa. Tôi đã quen nhìn ông không phải chỉ là chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là Bác Hồ của tôi.

Không buồn sao được khi nhìn lại tôi thấy trong tôi chỉ còn trơ trọi một niềm tôn trọng duy lý, một tình cảm lạnh lẽo đối với ông, như đối với một nhân vật lịch sử. Mà một thời ông đã từng có vị trí không nhỏ trong tim tôi.

(1) Ban tổ chức Trung ương không quên ra lệnh trấn áp các gia đình có người bị bắt trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng”. Sau khi tôi bị bắt vài tháng, vợ tôi đang làm ở Viện quy hoạch thuộc Bộ kiến trúc bị chuyển công tác tới Ty kiến trúc Hà Sơn Bình. Hàng ngày vợ tôi phải đạp xe 40 cây số đi về để trông nom ba con nhỏ. Các em tôi không được phép thi vào đại học, trừ một người được thi vào ngành thư viện do mẹ tôi đấu tranh rất dữ với Lê Ðức Thọ trong những năm sau này.

(2) (1921-1988) Nhà thơ quân đội thời kháng chiến chống Pháp, nổi tiếng với những bài thơ Tây Tiến, Ðôi Bờ, Mắt Người Sơn Tây, Lính Râu Ria (Cô Hàng Cà Phê)…

(3) Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã Cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học.

(4) Báo Văn Nghệ, 1961.

(5) Hồ Chí Minh “Nhật Ký Trong Tù”.

(6) Vụ lúa 10.1944 ở miền Bắc bị tàn phá nặng nề vì đê vỡ. Trong khi đó Pháp và Nhật thi hành một chính sách thu mua tàn bạo (giá thị trường 200 đồng Ðông Dương một tấn lúa, chúng bắt dân bán với giá 25 đồng). Một số vùng bị Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu cầu chiến tranh.

(7) Tháng 9.1945 tướng Dougles Gracey chỉ huy quân Anh-ấn kéo vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến thứ 16 trở xuống phía Nam theo quy định của Hiệp ước Postdam (7.1945). Dougles Gracey đã lấy vũ khí tước được của Nhật trang bị cho 1.400 tù binh Pháp mới được thả ra và một đại đội thuộc trung đoàn thuộc địa số 5 (5è RIC) cộng với một số Pháp kiều hung hãn để bọn này tấn công cách mạng Việt Nam. Ngày 11.10.1945 ngoại trưởng Anh Ernest Bevin còn tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp tại Ðông Dương (là điều hoàn toàn không được ghi trong Hiệp ước Postdam).