Thời học sinh

Học xong bậc tiểu học ở phủ Thái Ninh, tôi lên thành phố Nam Định học thành chung (trung học cơ sở). Tôi thi vào trường công không đỗ. Đúng là nhà quê ra tỉnh, nghĩ lại thật xấu hổ. Lớ ngớ thế nào đi lạc lung tung rồi nhầm phòng thi. Thành phố Nam Định với những toà “nhà Tây”, lúc đó, đối với tôi, sao mà hoành tráng mênh mông thế. Tâm trạng bối rối hoang mang như vậy thì làm bài tất không ra gì. Tôi trượt là phải. Không được học trường công, tôi xin học trường tư. ấy là trường cố đạo Xanh Tô-ma (Saint Thomas d‘Aquin). Thực ra thì tôi học trường ngoại trú Đức Bà (Externat Notre Dame) đặt ở phố Pigneau de Béhaine (nay là phố Bến Ngự). Có lẽ đây là một phân hiệu ngoại trú của trường Xanh Tô-ma chăng? Hiệu trưởng là một cố đạo Tây, người thấp lùn, râu tóc bạc phơ, gọi là cố lùn. (đối lập với một cố đạo khác cũng ở thành phố Nam Định gọi là Cố Cao.) Dạy học là những thày dòng (Frères) còn trẻ, mặc áo trùng thâm, cổ cồn trắng. Trường học nuôi cả một đàn dê cung cấp cho các bếp ăn hàng ngày của các cha cố. Nhiều frères rất chải chuốt và có vẻ trai lơ nữa. Sáng thứ hai, học sinh phải xếp hàng chào cờ trước tượng Đức Bà. Vào lớp thì phải đứng dậy cầu kinh vài phút trước khi học bài. Vài tuần lễ lại có một buổi giảng kinh Thánh, giống như ngoại khoá. Nói chung các frères dạy nghiêm túc, chuyên môn vững, nhất là về khoa học tự nhiên. Những học sinh như tôi, không theo đạo, thì được ghi vào danh sách kẻ ngoại đạo, vô đạo (paien). Tuy thế không thấy có sự phân biệt đối xử gì cả.

Những học sinh thành phố nói chung lanh lẹn, hoạt bát, ăn mặc đẹp và sang hơn học sinh nhà quê như tôi. Chúng thường bắt nạt tôi. Có lần tôi phản ứng lại đã bị chúng đánh cho một trận nên thân ngay giữa sân trường. Tất nhiên uất lắm nhưng chẳng làm gì được chúng, chỉ tự mình khắc sâu thêm cái mặc cảm về thân phận hèn kém, bị khinh bỉ.

Thời gian học ở Nam Định, tôi trọ ở nhà một ông gọi là ông giáo Cầu.

Chẳng biết ông dạy học ở đâu, bao giờ, dạy cái gì, chỉ biết ông đã nghỉ hưu lâu rồi. Ông có quen biết bố tôi cũng không biết tự bao giờ. Ông người cao, râu tóc đã bạc, ở với một bà vợ hai. Nhà có một đầy tớ trai tên là Hỵ. Vợ chồng ông giáo hay cãi nhau, diếc móc nhau. Bà giáo khoảng 40 tuổi, người khoẻ mạnh và khá đáo để. Hàng ngày tôi thường thấy ông giáo khăn áo chỉnh tề, xách ô đi đâu đó. Khi trở về thường bị bà giáo diếc: Lại mò đến nhà thằng con rể (lấy con gái bà cả) được nó đãi mấy mẩu kẹo lạc vụn chứ gì? Ông không nói gì, chỉ lừ mắt nghiến răng, đe doạ suông thế thôi. Nhưng bà chẳng sợ gì cả, còn nguýt lại mấy cái. Tôi đoán chừng ông giáo kiếm ăn bằng nghề viết đơn từ thuê cho những người có chuyện kiện cáo gì đó. Hồi này, cuộc đại chiến thế giới thứ hai đang diễn ra ác liệt. Tôi nhớ ông giáo thường gật gù vẻ đắc chí, nhắc đi nhắc lại một câu như sấm ngôn:“ Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”.

Nhà ông giáo là một căn hộ ở tầng hai, nằm trong một dẵy nhà cho thuê gọi là dẫy chín gian, cũng ở đường Pigneau de Béhaine. Cùng ở trọ nhà ông giáo Cầu còn có ba học sinh nữa cũng ở vùng quê lên trọ học, hình như đều là dân phố huyện Hải Hậu và bố mẹ cũng có quen biết ông giáo Cầu từ trước.Trong số này, tôi nhớ có một anh rất chăm học. Hồi ấy gọi là học gạo. Nhiều khi tôi thấy anh học bài, mệt quá, gục ngay lên sách ngủ, nước rãi rớt cả ra sách. Còn tôi thì vẫn lười học. Ngoài giờ lên lớp chỉ thích đi lang thang các phố xá, vườn hoa và ra cả các vùng ngoại ô. Hồi ấy (từ 1943 đến 1945), máy bay Mỹ đánh phá Nam Định luôn. Mỗi lần có báo động, tôi lại cùng người dân các phố quanh vùng chạy tản ra Bên Đồng (địa danh của một vùng ngoại ô thành phố, có cái hồ lớn gọi là hồ Rakét, có lẽ vì giống cái vợt bóng bàn – raquette). Tôi để ý, lần nào chạy báo động cũng có một gia đình Hoa kiều giầu có đi về phía cuối hồ, đến một ngôi biệt thự sang trọng. Gia đình này có một cô gái độ 18, 19 tuổi, xinh đẹp, mặc áo xường xám màu xanh lam, hở vai, xẻ tà, đi giày cao gót. Tôi cứ lẳng lặng lẽo đẽo theo cô ta cho đến tận ngôi biệt thự. Chỉ là một thứ tình cảm lãng mạn trẻ con vớ vẩn thế thôi – một thứ tình cảm mà sau này tôi thấy Hoàng Cầm thường kể lại trong những bài thơ của mình – mối tình Em – Chị…

Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa…

Ở thành phố Nam Định, tôi được chứng kiến cuộc đảo chính 9/3 của quân Nhật. Đêm hôm ấy, đang ngủ bỗng nghe nổ một phát đại bác. Tất cả chỉ có thế thôi. Sáng ra thành phố đã thuộc quân đội Nhật. Chúng chiếm đóng các công sở, hò hét tập thể dục. Một vài Pháp kiều đi lại lén lút, sợ hãi.Tâm lý bọn tôi hồi ấy rất khoái khi nghe chuyện bọn Tây đầm bị lính Nhật đánh đập, hạ nhục ngay trên đường phố hay ở các hàng quán … Ngay sau cái đêm đảo chính ấy, tôi đi xe kéo về Thái Bình (nhà tôi lúc này đã chuyển về ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình.) Qua cầu Bo, thấy lính khố xanh, khố đỏ nhớn nhác hò nhau chạy trốn. Cuộc đảo chính diễn ra chỉ có thế thôi. ở Nam Đinh bọn Nhật còn phải bắn một phát đại bác, chứ ở Thái Bình nó không tốn một viên đạn.

Bây giờ tôi không còn nhớ được vì sao lại không học ở trường ngoại trú Đức Bà nữa mà lại có thời gian học ở trường Pôn Dume (Paul Doumer) cũng là một trường tư thục ở thành phố Nam Định, đặt ở phố Pôn Be (Paul Bert) nay là đường Trần Hưng Đạo. Tôi nhớ hiệu trưởng có tật ở lưng, gọi là ông Tiển gù.

Trường này học sinh rất táo tợn, thậm chí rất hung hãn. Tôi đã chứng kiến, ngay trong giờ học, học sinh xông lên đánh thầy giáo. Chẳng biết ông giáo này phê vào học bạ của học sinh thế nào mà nó đến trước mặt thầy xé toang cuốn học bạ, sau đấy mấy đứa đồng bọn xô lên đánh thầy. Ông giáo này tên là Hãn, mặc soóc, người cao lớn, sức lực, vậy mà sợ hãi quá phải tuông từ tầng hai xuống, chạy ra ngoài đường, đến đồn cảnh sát cầu cứu.

Máy bay Mỹ đánh phá Nam Định ngày càng ác liệt. Có một trận bom ném vào nhà máy rượu gần dãy nhà tôi ở. Nhà xây đã lâu, trần nhà đã lở lói sẵn, nay bị hơi bom ép mạnh làm cho rơi xuống từng mảng.
Bố mẹ tôi sợ quá, chuyển tôi về học tại thị xã Thái Bình. ở thị xã Thái Bình lúc này, không hiểu sao lắm trường tư thục thế: Trường Pascal, trường Port Royal, trường Gia Long ở Hà Nội sơ tán về. Có thời gian tôi học ở trường Port Royal. Sau này tôi được biết hiệu trưởng tên Giang là một trí thức cấp tiến. Một hôm tôi thấy ông đến lớp tôi, giới thiệu với học sinh một thanh niên đến đọc thơ.
Người thanh niên này hình như là một sinh viên đại học gì đó, anh đứng trước lớp, đọc rất hùng hồn, kèm theo điệu bộ, bài Ly rượu thọ của Tố Hữu. Sau này tôi mới biết đó chính là anh Nguyễn Trác có một thời làm tổ trưởng tổ văn học Việt Nam hiện đại của trường Đại học sư phạm Hà Nội mà tôi là một tổ viên.

Anh người hiền lành, ít nói, vậy mà ngờ đâu đã có một thời trai trẻ hết sức sôi nổi, đầy cảm hứng lãng mạn.

Ở trường Port Royal một thời gian, tôi lại chuyển sang học trường Gia Long. Tôi nhớ hồi ấy có thầy Trương dạy toán, thầy Nghiêm Toản dạy Pháp văn, thầy Nguyễn Lương Ngọc dạy sinh vật. Thầy Ngọc đẹp trai, hiền hậu, ít nói, thường mặc bộ âu phục màu rêu nhạt, đi bách bộ một mình ở sân trường, có vẻ đăm chiêu suy nghĩ điều gì. Sau này tôi biết hồi đó thầy đang hoạt động trong nhóm Xuân thu nhã tập và thầy có những suy nghĩ về thơ ca, về đạo,về tư cách trí thức… Thầy dạy chúng tôi về con gà, con vịt, con chim bồ câu…vv… Mỗi bài dạy thầy lại kết thúc bằng một chuyện vui, chẳng hạn, có anh đi săn thấy vịt người ta nuôi tưởng vịt giời, bắn chết, bị người ta bắt đền…ý thầy muốn nói vịt  nhà và vịt giời giống hệt nhau.

Ở thị xã Thái Bình, tôi trọ học ở nhà một ông đồ nho. Bố mẹ tôi hồi ấy có nhờ ông dạy thêm cho tôi chữ Hán. Lúc này thuyết Đại đông á của Nhật rất có ảnh hưởng, đã đẻ ra phong trào học chữ Hán. Ông đồ bộ dạng rất hủ lậu. Vẫn búi tó củ hành. Ông rất bẩn. Tôi nhớ ông có một cái tăm rất dài, dùng xong lại dắt lên mái nhà để tiếp tục dùng mãi. Lối dạy của ông rất cổ lỗ “Nhân chi sơ là người chưng xưa, tính bản thiện là tính vốn lành”… Mỗi lần ông giảng bài, tôi rất sợ, vì mồm ông rất hôi. Không hiểu sao người thế mà lại có một bà vợ trẻ, người nhẹ nhõm, lanh lẹn.

Càng gần đến cách mạng Tháng Tám, không khí xã hội càng khiến cho lòng người không yên. Còi báo động liên miên. Chuyện bọn Nhật thu thóc tạ, bắt dân nhổ lúa trồng đay, chuyện tội ác dã man của chúng. Tin tức hoạt động của Việt Minh các nơi dội về: họp dân diễn thuyết, phát báo chí, truyền đơn, giết Việt gian, phá kho thóc Nhật… vv… Và nạn đói khủng khiếp diễn ra ngay giữa vùng lúa gạo Nam Định, Thái Bình…

Tôi không học nữa, trở về với gia đình ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. Ở đây có một dạo, bố mẹ tôi bắt tôi học tư ông giáo Năng ở làng Thượng Phú, cách nhà tôi ở phố phủ Thái Ninh độ vài cây số. Ông dạy tôi tiếng Pháp. Tôi nhớ ông thường cho tôi dịch ra tiếng Pháp những câu ca dao có nội dung nói về nỗi khổ của người dân nghèo, hoặc châm biếm nhân tình thế thái, chẳng hạn:

Cha đời cái áo rách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi!

Sau này, nghiên cứu văn thơ cách mạng thời kỳ 1930 – 1945, tôi mới biết ông giáo Năng làng Thượng Phú té ra là Nguyễn Văn Năng, một chiến sĩ cộng sản từng bị bắt giam và đã sáng tác một số bài thơ trong tù, như bài: Đi Hà Giang, Tôi không chết, tôi còn sống mãi…vv…Hồi tôi học ông, chắc ông đang bị quản thúc ở quê nhà.

Tôi ở Thái Bình vào đúng thời gian nạn đói ất Dậu (mùa xuân năm 1945). Trong truyện Đôi mắt, Nam Cao từng nói đến nạn đói này mà ông cho là “ có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Quả là một nạn đói hết sức khủng khiếp. Hồi ấy tôi thường đi xe kéo từ Nam Định qua bến Tân Đệ sang Thái Bình, đâu đâu cũng thấy xác người chết đói: vệ đường, gốc cây, quán chợ. Sáng sớm, có khi thấy xác người nằm ngang ngay giữa đường.

Ở Thái Ninh, nhà tôi trông ngay ra chợ phủ. Buổi sáng mở cửa, thế nào cũng có vài xác chết nằm ở vỉa hè. Từ các làng mạc người ta khiêng về bầy bán ở chợ phủ đủ thứ: giường phản, đồ thờ, có khi dỡ cả khung nhà đi bán. Nhưng chẳng có ai mua. Trận đói lại xảy ra đúng vào mùa rét. Bụng đói, cật rét! Hình ảnh phổ biến lúc bấy giờ là đàn ông, đàn bà lấy chiếu khoác quanh mình và buộc túm trên đầu, cứ thế lũ lượt đi ngoài đường, ăn xin hay xúm quanh những đống rác trong chợ, nhặt nhạnh bòn mót những gì có thể cho vào mồm được. Tất nhiên đói quá thì phải liều lĩnh làm càn: ăn cướp, ăn cắp, cứ xông vào các hàng quà bánh, hàng gạo, hàng cám, bốc trộm nhét luôn vào mồm, mặc cho người ta đánh đấm túi bụi. Hồi ấy bọn tuần phu, lính tráng bắt được trộm, cướp, không mất công, vả lại cũng không có điều kiện giam giữ, họ lấy dao cắt luôn gân chân cho què rồi thả ra.

Ngày trước cụ Ngô Tất Tố có viết một truyện gọi là Làm no, phát hiện người ta ăn cả đất. Đúng là đói quá, cái gì cũng phải ăn: lá dâm bụt, bánh khô dâu (một thứ phân bón). Lúc ấy sao mà rau má, rau sam, rau dền đi đâu hết cả.

Nhiều người lội xuống ruộng, tìm những bông lúa mới trổ đòng đòng tống vào miệng và gục luôn xuống không bao giờ dậy nữa. Người ta lũ lượt kéo nhau lên miền ngược, hi vọng kiếm được cái ăn trong rừng như củ mài, củ sắn, rau rừng…, nhưng dọc đường đi đã chết gần hết. Trong bài Phở, ông Nguyễn Tuân có nói, trong nạn đói ất Dậu, ở bến Tân Đệ có hàng phở thịt người. Tôi thì chính mắt đã trông thấy một người mẹ ăn thịt con. Người ta bắt vào phủ, chẳng biết xử thế nào. Trông người đàn bà không còn ra bộ dạng con người nữa, dường như là ma quỷ hiện hình lên vậy.
Lúc bấy giờ khẩu hiệu của Việt Minh phát ra: “ phá kho thóc Nhật, cứu đói!” Đằng nào cũng chết, theo Việt Minh còn có hi vọng được sống. Nông dân các nơi ào ào nổi dậy và cách mạng Tháng Tám thành công.

Những ngày Cách mạng Tháng Tám, tôi ở cùng với gia đình ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. Một đêm tháng tám, tôi không nhớ là đêm nào, chắc là trước ngày 19, bỗng nghe có tiếng súng nổ và thấy tiếng hô một, hai ngoài phố phủ. Tôi chạy ra xem, thấy có một đoàn người độ vài ba chục xếp hàng đi dọc đường phố, người cầm cờ, người vác súng,người cầm mã tấu, người mang gậy gộc. Họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu: Việt nam độc lập đồng minh muôn năm! Đả đảo phát xít Nhật! Đả đảo Việt gian bán nước! Thỉnh thoảng lại bắn một phát súng chỉ thiên. Không khí hết sức căng thẳng. Người hàng phố đóng cửa hết, nhưng chắc đều đứng nép mình nhìn qua khe cửa.

Tôi thì cứ lần theo đoàn quân Việt Minh, tuy không dám đến sát gần, nhưng không bỏ sót một hành vi nào của họ. Đoàn kéo đến một ngôi hàng tạp hoá và dừng lại. Người chỉ huy gọi tên chủ nhà bắt ra trình diện. Ông này tên là Thuyết, Hai Thuyết. Gọi mãi không thấy mở cửa, họ bèn xông lên đập cửa thình thình. Một lát thấy cửa hé mở và một bà già bước ra. Bà cứ vái lạy đoàn quân: “Lạy các quan, trăm lạy các quan, cháu nó không có nhà.” Người chỉ huy hô to: “Đả đảo! Đả đảo!” (tôi nghe nói chủ hiệu tạp hoá này hình như có bán thứ hàng hoá gì đó cho Nhật).

Lúc này, Hai Thuyết đang tụ họp đánh tổ tôm trong một nhà ai đó ở một ngõ ngách nào đấy của phố phủ. Tiếng hô đả đảo dữ dội vang đến hội tổ tôm. Hai Thuyết biết không thể trốn tránh mãi được, bèn nhờ một ông bạn tổ tôm dắt ra nộp mình cho cách mạng. Người chỉ huy ra lệnh điệu Thuyết đến trước hàng quân, rồi lớn tiếng hỏi: “ Các đồng chí, Hai Thuyết đáng xử tội gì?”

– “ Xử tử! Xử tử!,” đoàn quân đồng thanh hô vang. Tôi sợ quá! Anh chỉ huy xem chừng tội của Thuyết không đáng chết, nên nói: “ Các đồng chí, cách mạng khoan hồng đối với kẻ biết tội đã ra đầu thú. Vậy hình phạt hạ xuống: “Cắt tai!” Anh chỉ huy chưa nói dứt câu, đã thấy mấy người xô tới Hai Thuyết và hình phạt được thi hành ngay lập tức. Tôi chỉ thấy Hai Thuyết bưng tai cúi lạy đoàn quân.
Đoàn quân còn diễu hành mấy vòng trở đi trở lại phố phủ. Họ gọi tên một số người trong phố mà họ cho là có thái độ không tốt như thế nào đó đối với cách mạng cần phải cảnh cáo. Những người bị gọi tên chắc sợ lắm.

Thấy đã khuya và không có gì hấp dẫn nữa, tôi trở về nhà và không rõ đoàn quân Việt Minh cuối cùng đã giải tán như thế nào.

Những ngày Việt Minh cướp chính quyền ở phủ là những ngày rất vui. Họ chiếm phủ đường, dinh quan, các trại lính, trại giam. Tất cả diễn ra trôi chảy, không có xung đột gì cả. Chính quyền cũ rút lui hoàn toàn tự nguyện. Khí thế Việt Minh rất mạnh, các tầng lớp nhân dân đều ủng hộ nhiệt liệt. ở cổng phủ lúc nào cũng có đông người tụ họp. Chẳng có việc gì đâu, chỉ đến để nghe ngóng tin tức thời sự và để xem các chiến sĩ Việt Minh. Tôi cũng thường đến đấy và thấy cách mạng thật là vui. ở đây tôi được chứng kiến một cuộc truy bắt và xử tử Việt gian. Tôi còn nhớ thằng Việt gian này tên là Xập Giắt. Đúng ra nó không phải là người Việt mà là một Hoa Kiều, cũng không phải sinh sống ở phố phủ Thái Ninh. Chắc nó là một thằng thân Nhật có tiếng nên người ở địa phương khác cũng biết. Nó phóng xe đạp ngang qua phố phủ Thái Ninh, hình như đang trên đường chạy trốn. Vô phúc cho nó là ở cổng phủ lại có người biết nó. Họ hô hoán lên và những người có xe đạp hò nhau đuổi theo. Họ bắt được nó và giải trở lại. Nó người cao lớn khoẻ mạnh, mặc áo sơ mi cộc tay, quần soóc. Trông không có vẻ gì sợ hãi cả. Nó bị tống vào nhà giam. Nhưng có đúng là thằng Xập Giắt không chứ? Người ta tìm người biết mặt thằng Xập Giắt đến nhận diện. Một lát sau tôi thấy người ta điệu nó đi xử bắn luôn. Tên tử tội không bị xiềng xích gì cả, người ta chỉ trói chập hai tay nó ra đằng trước và thúc nó đi. Một đoàn người lớn trẻ con kéo theo sau. Trẻ con nhiều hơn. Tất nhiên tôi cũng ở trong đám con nít háo hức này. Đoàn người vừa đi vừa hô đả đảo Việt gian bán nước. Đi hết phố thì đến cánh đồng, người ta dừng lại, bắt thằng Xập Giắt quay mặt ra ruộng.

Mấy tay súng mở quy lát lách cách. Nhưng mãi không thấy súng nổ. Chắc mấy anh chiến sĩ chưa quen dùng súng. Xập Giắt lúc đầu có vẻ bình tĩnh, sau vì thời gian đợi chết kéo dài quá, nó đâm hoảng, quay lại vái lậy xin tha tội. Người ta lệnh cho nó quay trở lại. Mấy phát súng nổ. Thằng Xập Giắt ngã lăn ra vệ đường. Ruột xổ ra. Nhưng nó chưa chết, chân tay vẫn cử động và miệng thì rên ồ ồ. Lại bắn mấy phát nữa. Hình như vẫn chưa trúng chỗ hiểm nên nó vẫn chưa chết. Thôi cứ mặc nó nằm đấy, rồi nó cũng chết – chắc họ nghĩ thế nên không bắn nữa và quay về phủ. Về sau tôi nghe nói, người đào huyệt chôn Xập Giắt, vừa lấp đất vừa khấn thằng Hoa kiều: “ Thôi thì đằng nào chú cũng chết, chú đừng oán tôi làm gì. Tôi chôn chú cho chú đỡ khổ”. Xập Giắt chỉ là một tên vô danh tiểu tốt. Nhưng tôi chắc hồi ấy, những nhân vật có tiếng như Phạm Quỳnh chẳng hạn, người ta cũng xét và xử đơn giản như thế thôi.
Sau khởi nghĩa ít ngày thì vỡ đê Thái Bình, nước đổ về phố phủ. Năm ấy lụt to. Nhà tôi nước ngập đến hơn một mét. Phải kê giường phản lên cao. Cả nhà sống trên mấy cỗ ghế ngựa ghép lại, thổi nấu, ăn uống, ngủ nghê tất cả ở đấy.

Thức ăn thì mua của những người quanh vùng ghé thuyền, ghé mảng vào bán: Tôm cá, cua ốc, chuối xanh, rau cỏ, vừa sẵn vừa rẻ. Người ta ở đâu khổ sở thế nào không biết, chứ riêng bọn trẻ chúng tôi thì rất khoái. Khoái nhất là chặt chuối, đóng bè, chống sào đẩy đi chơi lang thang trên đồng nước hay dọc phố phủ. Tôi cũng bắt đầu biết bơi từ ngày ấy.

Tôi không nhớ bao lâu sau thì nước rút. Sau trận lụt, bố mẹ tôi quyết định chuyển hẳn cả gia đình về Bắc Ninh. Bố tôi làm việc cho chính quyền cũ, tất nhiên là bị bãi chức. Rất may là cách mạng ở đây không hề động chạm gì đến cả.

***

Quê tôi, như đã nói, ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, ngày xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đê sông Hồng cắt ngang qua làng. Trong đê thì ruộng ít. Ngoài đê thì chỉ có bãi sông. Người làng có tiền muốn tậu ruộng phải tìm nơi khác. Bố tôi trong thời gian làm lục sự, xem chừng cũng kiếm được. Ông tậu được khoảng 15 mẫu ruộng và một căn nhà ngói ba gian, hai trái, có sân rộng, ở làng Quảng Lãm, huyện Võ Giàng (nay thuộc huyện Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Làng Quảng Lãm ở ngay chân đê bên bờ bắc Sông Đuống, quãng trông sang bên kia là làng Hồ, quê Hoàng Cầm.

Khi mới chuyển về Bắc Ninh, gia đình tôi ở thị xã, chứ không về nơi có ruộng đất. Đơn giản là vì không biết làm ruộng. Lâu nay, tất cả ruộng nương nhà cửa đều giao cho một ông chú, em út bố tôi, gọi là chú Xã Hột, trông nom. Ông cho phát canh thu tô. Hàng năm bố mẹ tôi cho người về bán thóc lấy tiền.
Ở thị xã Bắc Ninh, bố tôi thuê một ngôi nhà hai tầng ở phố Ninh Xá, đầu tỉnh phía Nam, nằm trên đường số 1 chạy thẳng từ Hà Nội lên Lạng Sơn. Bố tôi mở hiệu thuốc bắc. Tôi tiếp tục đi học cấp II ở trường Hàn Thuyên, lúc đó hiệu trưởng là ông Hoàng Ngọc Phách. Trường đóng ở đầu tỉnh phía Bắc. Tôi còn nhớ lõm bõm tên một số thầy giáo lúc bấy giờ: thầy Khôi dạy toán, thày Cư dạy Sử, thầy Tuyền dạy tiếng Anh, thầy Khánh dạy sinh vật, thầy Thuyết dạy pháp văn… một hoạ sĩ dạy vẽ, tôi quên tên. Sau Cách mạng Tháng Tám, cấp học phổ thông vẫn theo hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc. Tôi học năm thứ ba thành chung (trung học cơ sở).

Thời gian này, ở trường Hàn Thuyên, tôi được tham dự một sự kiện rất vui: học sinh biểu tình chống thi cử. Hiệu đoàn trưởng tên là Nguyễn Duy Long (sau này tham gia bộ đôi, làm thơ trào phúng lấy tên Lê Kim). Anh khởi xướng và lãnh đạo cuộc biểu tình này. Cuộc biểu tình đã được trù bị trong một cuộc họp các cốt cán từ hôm trước – không hiểu sao tôi cũng được tham dự. Tôi nhớ, trong cuộc họp này, có anh tỏ ý e ngại, bàn lùi, liền bị đuổi thẳng cánh.

Cuộc biểu tình diễn ra như sau: Sáng hôm ấy, ở cổng trường, ban chỉ huy biểu tình đã cắt người đứng gác. Học sinh đến trường đều được ngăn lại, phát truyền đơn và tổ chức thành đội ngũ. Khi đã khá đông đủ, cuộc biểu tình bắt đầu. Học sinh xếp hàng đi vòng quanh sân trường, vừa đi vừa hô khẩu hiệu: “ Đả đảo thi cử!”, “ Đả đảo lối học nhồi sọ!”. Học sinh tỏ ra rất phấn khởi. Bản thân tôi rất khoái. Không phải thi cử thì sướng quá rồi còn gì nữa! ai nấy mặt mày hớn hở, chân bước rầm rập, tay vung cao, miệng hô khẩu hiệu đầy hào hứng. Trong khi đó, mấy thầy giáo tụ tập ở hành lang của văn phòng nhà trường, không biết tâm trạng ra sao, chỉ thấy chụm đầu vào nhau thì thầm gì đấy, chắc là hoang mang lắm.
Cuộc diễu hành đi quanh sân trường mấy vòng thì được lệnh dừng lại. Ban trù bị đã kê sẵn ở giữa sân trường một cái bục cao làm nơi diễn thuyết. “Lãnh tụ” Nguyễn Duy Long bước lên diễn đàn lớn tiếng giải thích thi cử là lối học nhồi sọ của đế quốc thực dân, nay phải bãi bỏ. “Đả đảo thi cử!”, “ Đả đảo thi cử!”, cả khu sân trường lại vang dội tiếng hô của học sinh hưởng ứng khẩu hiệu của Nguyễn Duy Long.
Hôm ấy việc học coi như bỏ. Học sinh vui vẻ ra về. Sau cuộc biểu tình, hình như Nguyễn Duy Long có gặp ban giám hiệu nhà trường. Nghe nói sau đó một số thầy giáo có bị gọi đi đâu đó. Cho đến nay tôi cũng không rõ thực hư thế nào, chỉ biết sau đó việc dạy và học lại tiếp tục bình thường.

Trong thời gian gia đình tôi ở thị xã Bắc Ninh, tôi được chứng kiến bọn Tầu Quốc dân đảng sang giải giáp hàng binh Nhật và tiếp đó là những cuộc gây hấn của bọn lính viễn chinh Pháp được phép kéo vào nước ta theo hiệp định sơ bộ 6/3. Hồi ấy người ta gọi quân đội Tầu Tưởng là Tàu phù. Có lẽ vì bọn chúng đi đứng thất thểu nhếch nhác, da vàng bủng, như lũ ốm đói, đồng thời chúng thường quấn xà cạp bó chân to và thẳng đuỗn như bị phù. Đúng là loại quân ô hợp chắc là được chiêu mộ từ đám dân nghèo, lưu manh ở những vùng phía Nam Trung Quốc. Là lũ dân nghèo, nhà quê hết sức lạc hậu, chúng rất bẩn, bạ đâu cũng ngồi, bạ hàng quà bánh gì cũng xà vào ăn: khoai luộc, bánh đa, bánh đúc… Có thằng thấy cái bô đi toalét của người ta tráng men sạch sẽ, tưởng là đồ đựng thức ăn bèn lấy múc nước uống hay đựng cơm, canh.

Gia đình tôi lúc ấy thuê một căn nhà hai tầng rộng rãi ở ngay mặt đường số 1 (phố Ninh Xá). Chúng đến chiếm luôn tầng lầu cho một sĩ quan ở. Viên sĩ quan này không biết cấp bậc gì mà có kẻ hầu người hạ mà được đem theo cả vợ con. Thằng chồng hàng ngày có xe đón đi đâu đó, còn vợ và đứa con gái thì chẳng đi đâu cả, không bao giờ thấy xuống tầng dưới. Mọi sinh hoạt đều làm trên gác, có lính hầu dọn dẹp, nấu ăn và đổ bô vệ sinh. Hồi ấy, nhà cửa dù sang trọng thế nào cũng không có tiện nghi như bây giờ (tầng nào cũng có toalét riêng). Chúng ở nhà tôi một thời gian thì rút. Khi chúng đi rồi, chúng tôi lên gác, thấy hết sức bẩn: đờm rãi bầy nhầy khắp sàn nhà lát gỗ. Không hiểu sao, sống như thế mà chúng chịu được. Mà chúng có người hầu hẳn hoi kia mà! Mà sao chúng không chịu xuống nhà dưới đi vệ sinh hay tắm rửa! Có người nói rằng ở bẩn là một đặc điểm có tính dân tộc của người Trung Hoa, có lẽ cũng đúng. Chẳng thế mà dân gian có câu: “ ở bẩn sống lâu, người Tầu bảo thế”.

Quân Tầu rút đi thì quân Pháp tới. Bọn lính viễn chinh Pháp thì tỏ ra rất hùng hổ. Chúng đội mũ calô đỏ nên người ta gọi là lính mũ đỏ. Chúng thường qua lại trên đường số một bằng xe cơ giới có vũ khí trung liên lòng thòng băng đạn đỏ ối. ở đầu tỉnh phía Nam có một doanh trại quân đội ta và một trạm gác. Lúc đó Nguyễn Duy Long (tức Lê Kim) đã nhập ngũ. Anh biết tiếng Pháp nên giữ việc giao thiệp với bọn Pháp. Chắc hẳn bọn chúng thường vi phạm những nguyên tắc gì đó đã được quy định ở hiệp định 6/3 nên bị bộ đội ta ngăn lại. Lập tức chúng nổ súng và cứ thế phóng xe đi.

Bộ đội ta vì thế luôn luôn phải đối phó, tuy rút cục vẫn phải nhân nhượng chúng. Căn gác nhà tôi có cửa sổ trông xuống đường, trở thành nơi ẩn nấp của bộ đội ta để nếu cần thì nổ súng hay ném lựu đạn. Tuy thế, chưa có lần nào tôi thấy các anh phải đánh đấm gì, mặc dầu có lúc chúng bắn lên cửa sổ lầu gác mấy phát làm thủng một lá màn. Tôi chắc mình lúc đó có lệnh không được quá “cứng rắn” với chúng, vì cần kéo dài thời gian hoà bình để chuẩn bị kháng chiến, do đó, dù chúng luôn luôn khiêu khích, cố tình vi phạm hiệp định, thậm chí có lần cho cả máy bay ném bom xuống thành Bắc Ninh, ta vẫn dùng biện pháp thương lượng, cố dàn xếp cho êm chuyện, không để chiến tranh nổ ra.

Tình hình Bắc Ninh ngày càng căng thẳng. Ai nấy đều thấy chiến tranh đang tới gần. Đã có lệnh tiêu thổ kháng chiến. Toà thành cổ Bắc Ninh bị san phẳng. Dân chúng kéo nhau tản cư về nông thôn. Gia đình tôi cũng chuyển hẳn về Quảng Lãm và ở đấy cho đến khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Ở Quảng Lãm, trong một thời gian dài, gia đình tôi vẫn sống trong một không khí hết sức yên ổn, ngay cả sau ngày 19-12-1946. Các chị tôi mở một cửa hàng nhỏ ngay tại nhà, bán các thứ hàng tạp phẩm vặt vãnh: diêm, thuốc, dầu Tây, muối, bánh kẹo…vv… Bố mẹ tôi, bà chị cả tôi và ông anh rể hàng ngày vẫn đánh tổ tôm, tài bàn. Bọn trẻ chúng tôi thì đi lang thang dong chơi trong làng, ngoài đồng, thăm các đền miếu quanh vùng, hoặc xa hơn nữa thì đi các chợ Chì, chợ Hồ chơi hay lên tận núi Dạm viếng chùa Hàm Long…

Cùng tản cư về Quảng Lãm có gia đình người anh con ông bác ruột của tôi là Nguyễn Đăng Thục. Ông Thục là kỹ sư hoá học, nhưng lại chuyên nghiên cứu triết học cổ phương Đông: Nho, Phật, Lão. Bố vợ ông Thục cũng có nhà đất ở Quảng Lãm. Ông Thục thường đến chơi với ông bố tôi. Có lần tôi nghe lỏm được ông nói với bố tôi thế này: “ Đảng cộng sản Pháp phê bình đảng cộng sản Việt Nam cướp chính quyền sớm quá”. Ở Quảng Lãm được ít lâu thì gia đình Nguyễn Đăng Thục trở về Hà Nội (lúc ấy gọi là dinh tê – entrer).

Một buổi sáng kia, tôi không nhớ là ngày nào, bọn Pháp đánh sang bờ Bắc sông Đuống, sục vào các làng mạc ở ven sông, trong đó có Quảng Lãm. Như thế là chúng đánh tới các vùng phía Nam sông Đuống trước (thuộc các huyện Thuận Thành, Lang Tài gì đó), rồi từ bờ Nam tràn qua bờ Bắc. Tôi nhớ lúc ấy bố mẹ, anh chị tôi đang đánh tổ tôm, vội vàng vơ vét ít của cải, tay xách nách mang, hốt hoảng chạy, cứ men theo bờ ruộng chạy về phía làng mạc cách xa sông Đuống. Tiếng súng tắc bọp nổ ngay đầu xóm. Tàu bay thì cứ lượn trên đầu, thỉnh thoảng lại xả súng xuống. Những lúc ấy chỉ biết nằm rạp xuống bờ ruộng trống trải, hoàn toàn trông vào sự may rủi. Đạn bắn xuống, nhiều khi nước ruộng bắn cả vào người… May mà không ai việc gì.

Tụi Pháp đánh sang bờ Bắc sông Đuống nhưng không đóng lại mà rút về bờ Nam. Tuy thế gia đình tôi từ đó không dám quay lại Quảng Lãm nữa. Nhưng vẫn chưa chịu đi xa mà chỉ quanh quẩn cách Quảng Lãm mấy cây số thôi, khi ở làng Và, khi ở núi Dạm. Thóc lúa thì cho người về chuyển đi. Đồ đồng, đồ sứ thì đào hố chôn ngay xuống nền nhà.

Chiến sự ngày càng lan tới, không thể quanh quẩn ở vùng Bắc Ninh được nữa, gia đình tôi quyết định tản cư hẳn lên phía Bắc. Lúc đầu ở Bắc Giang, (làng Vân Cẩm, gần chợ Lữ, chợ Thắng), sau lên Thái Nguyên (Phương Độ – Phú Bình). Nhưng vẫn chưa chịu đi xa hẳn- khi thấy yên yên, lại quay trở lại Vân Cẩm.

Vợ chồng bà chị cả tôi không chịu được khổ, đến năm 1951 thì bỏ vào Hà Nội. Các chị thứ hai, thứ ba thì xoay ra buôn bán ở các chợ quê (hàng tấm, hàng xén) Lúc này tiền nong đem theo đã cạn kiệt. May sao tôi có bà chị thứ hai (Nguyễn Thanh Tần) buôn bán rất giỏi, coi như chỗ dựa về kinh tế của cả gia đình.

Năm 1949, máy bay Pháp bắn phá chợ Thắng (tên đầy đủ là chợ Đức Thắng thuộc huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang). Chị Tần bị trúng đạn xã hẳn một bên vai. Như thế là chúng đánh đúng vào cây cột trụ về kinh tế của gia đình tôi.

Bố mẹ tôi quyết định chaỵ thẳng lên miền Bắc tỉnh Thái Nguyên (ở chân dốc Đình, thuộc huyện Đại Từ) dựa vào gia đình một ông chú (em họ mẹ tôi) có sẵn cơ sở ở đấy. Chị Tần mở một quán nước ở bên đường. Chị thứ ba và em gái tôi thì đi học sư phạm và ra dạy cấp một. Anh tôi thì vào bộ đội. Đây là thời kỳ khổ nhất của gia đình tôi. Một mặt vì người chị đảm đang nhất của gia đình không còn sức khoẻ để xông pha như trước, mặt khác, bọn Pháp vẫn đánh lên. Nhiều khi phải vào ẩn nấp chui rúc trong rừng. Có lúc gia đình tôi phải ăn cháo sắn trừ bữa, thậm chí phải ăn củ chuối thay cơm. Hàng ngay tôi cùng mẹ vào rừng lấy củi và hái măng. Tôi nhớ có lần giường sụt gẫy (giường đan bằng nứa đặt trên mấy cọc gỗ tươi có ngàm chặt trong rừng ngay sau nhà), nồi cháo sắn để trên đó đổ vào chân mẹ tôi khiến người bị bỏng nặng.

Hoàn cảnh nhà tôi như thế mà vẫn có một anh bạn học của tôi đến ăn và ở nhờ một thời gian. Ngày ngày hai bữa cơm độn ngô, độn sắn. Vì trường học giải tán mà bố mẹ anh ta lại ở mãi trong nội thành Hà Nội.
Trong thời gian gia đình tôi về Quảng Lãm hay chạy lên Bắc Giang, Thái Nguyên, tôi vẫn tiếp tục đi học, khi ở trường Hàn Thuyên sơ tán lên Bắc Lý, thuộc Bắc Giang, khi ở trường Lương Ngọc Quyến đóng ở xã Phương Độ huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

Ở Lương Ngọc Quyến tôi được thấy một vụ án mạng rất khủng khiếp, nạn nhân là bố con thầy Đoàn Hùng, hiệu trưởng của trường. Không biết do thù oán gì mà kẻ hành hung đâm chết một lúc thầy Hùng và con trai cả tên là Hiền. Thầy Hùng mất, thầy Dương Xuân Nghiên lên thay.

Ở Lương Ngọc Quyến tôi học năm thứ tư (tức năm cuối của PTCS). Bạn cùng lớp, tôi chỉ còn nhớ mấy người: Nhân, Nhiệm, Trứ, Viêm, Ngà… Không biết giờ ở đâu, còn hay mất. Hồi này tôi nổi tiếng nghịch ngợm. Viết bích báo ký Spitfire. Bạn bè thì đặt cho cái tên rất dữ: “Mãnh Tăng”.

Giữa năm 1947, tốt nghiệp cấp II ở Lương Ngọc Quyến, tôi tìm lên Phú Thọ học tiếp cấp III ở trường
Trung học Kháng chiến vốn là trường Chu Văn An Hà Nội sơ tán lên. Trường phân ra ba chuyên ban, nên gọi là trung học chuyên khoa, đóng ở Đào Gĩa thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Tôi học ban Toán – Lý – Hoá (hai ban khác là ban vạn vật và ban Sinh ngữ).

Trường dựng trên một khu đồi. Người ta làm một ngôi nhà sàn lớn, tầng trên là phòng ngủ, tầng dưới vừa làm nhà ăn vừa làm lớp học, khi cần thì dùng làm hội trường.

Học sinh hầu hết là dân thành phố ở dưới xuôi lên, cách sinh hoạt rất khác với dân địa phương. Phụ trách ăn uống là một nhà hàng ở thị trấn Thái Ninh (gọi là hàng bủ Tài Lâm) ngày hai bữa gánh cơm canh vào, học sinh ăn xong, lại dọn đi.

Hồi ấy học đến trung học chuyên khoa (bậc tú tài) phải là con em những gia đình khá giả. Nhiều cậu đàn nhạc rất giỏi. Chiều thứ bảy họ vào trong làng tổ chức hoà nhạc, gọi là Soirée musicale, đôi khi gây ra những chuyện rắc rối đối với trai gái trong làng, thậm chí dẫn đến xung đột.

Những ngày Đào Giã (1947, 1948) tính cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Trong trí nhớ của tôi chỉ còn thấp thoáng một số ấn tượng về cảnh và người của  một vùng đất một thời đã lùi xa.

Đại khái tôi nhớ ở đấy có những cái giếng nước rất nông, nước trong vắt. Có một cái giếng gọi là giếng Thần, nước dâng cao hơn cả mặt đất, người ta phải ken gỗ cao quanh miệng giếng cho nước khỏi tràn ra. Giếng Thần ở ngay cạnh đường đi. Vậy mà những cô gái làng cứ tắm truồng thoải mái quanh giếng một cách rất hồn nhiên tự nhiên. Có khi phía này giếng, đàn bà tắm, phía bên kia, đàn ông tắm. Có cô gái từ bên này lại còn với tay sang bên kia “xin tý xà phòng”.

Về món ăn “đặc sản” của địa phương, không hiểu sao tôi cứ nhớ mãi món trám trắng. Người ta giã quả trám cả hột rồi rang mặn (ăn tựa như món sườn lợn băm nhỏ rang muối) – một món ăn nghèo nhưng thường có trên mâm cơm người dân nơi đây, gọi là ăn cho “ mặn miệng”.

Về tiếng địa phương thì “bầm”, “bủ” là tiếng gọi thân tình những bà mẹ – hai tiếng này đã đi vào thơ kháng chiến của Tố Hữu nên trở thành quen thuộc: “Bầm ơi có rét không bầm?”, “Bà bủ nằm ổ chuối khô, Bà bủ không ngủ bà lo bời bời…”.

Về các bạn học thì dễ nhớ nhất là những người có kèm tên riêng rất nghịch do bạn bè đặt cho dựa theo một đặc điểm nào đấy (dù học những lớp hay chuyên khoa khác nhau) như Minh Khừng, Thịnh Rề, Thịnh Lợn, Xán Còi, Chí Mọi, Nga mẹ nghệ… Một số khác do quan hệ riêng nên sau này tôi hay gặp, như Nguyễn Đình Nghi, đạo diễn sân khấu, Lưu Công Nhân, hoạ sĩ, Phan Ngọc Đức, bác sĩ… có người rất nhớ chỉ vì nổi tiếng hung hăng, hay gây sự đánh nhau, như Ngô Thế Uông (gọi là Uông khùng) Răng Đông (không hiểu sao lại có cái tên rất lạ như thế?). Ngoài ra, gần đây, có một số bạn tôi thường được gặp nhờ những cuộc hội họp hàng năm do Ban liên lạc trường Trung học kháng chiến Chu Văn An tổ chức, như Đặng Lan Anh, Nguyễn Kiều Nga, Nguyễn Tài Thu, Lê Diễm Tuyết, Đỗ Sâm, Trần Đỗ Trinh, Nguyễn Duy Khoa, Trần Thục Phi…vv…

Về giáo viên của trường thì tôi cũng chỉ nhớ lõm bõm: dạy toán có thầy Ngô Thúc Lanh, Nguyễn Văn Hoàn, Dương Trọng Bái, dạy văn có thầy Trần Văn Giáp, dạy tiếng Pháp có thầy Bảng, cô Thục Viên, dạy hoá có thầy Cát… Hiệu trưởng là thầy Trần Văn Khang, dạy sử. Thầy rất tốt bụng, thương học trò như con đẻ (vì thế học sinh thường gọi là Ba Khang). Hiệu phó là thầy Nguyễn Văn Chiển, chuyên ngành địa chất. Phụ trách y tế có anh Phạm Khuê (con Phạm Quỳnh), lúc bấy giờ đang là sinh viên đại học y khoa. Ngoài ra có một anh y tá tên là Phi Long, đi đâu cũng dắt theo một con chó lài…

***

Tôi tìm đến trường Trung học Kháng chiến Đào Giã một cách khá phiêu lưu: nếu không được cấp học bổng thì lấy gì mà ăn học? Mà đã chắc gì được cấp! Gia đình tôi lúc bấy giờ đang trong tình trạng túng quẫn không thể cấp lương ăn cho tôi được. Nhưng con người ta hồi ấy là thế, rất lạc quan tin tưởng ở lòng tốt của mọi người: cùng đồng bào với nhau, cùng đi kháng chiến với nhau thì phải thương yêu nhau, phải giúp đỡ nhau chứ! Mà quả thực là thế. Hồi ấy đi công tác đường trường, trời tối, có thể vào bất cứ nhà ai bên đường cũng có thể được mời nghỉ lại và cho mượn mọi dụng cụ để nấu ăn. Người ta đều thế cả, huống chi hiệu trưởng Trường Trung học kháng chiến lại là “ba” Khang, nổi tiếng thương học trò.
Ở trường Lương Ngọc Quyến, Thái Nguyên, tôi tình cờ làm quen được một anh vừa học xong năm thứ nhất Trung học kháng chiến có cô em gái tên là San học lớp dưới cùng trường với tôi. Anh tên là Bùi Mạnh Sán. Anh trở lại Đào giã, rủ tôi cùng đi. Tôi đi luôn.

Cuộc đi của tôi vào khoảng mùa thu năm ấy (1947) từ bến Phương Độ, huyện Phú Bình (một huyện thuộc phía Nam tỉnh Thái Nguyên) lên Đào Giã huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, là cuộc đi đầu tiên của tôi từ miền trung du lên miền thượng du Việt Bắc. Nghĩa là từ miền xuôi lên vùng núi cao. Cuộc đi đường thật vui, đúng là “ Đường vui”, ông Nguyễn Tuân nói thế, hình như cũng đúng vào thời điểm này. Lần đầu tiên trông thấy rừng núi, cái gì cũng lạ, cái gì cũng đẹp. Tôi rất thích những rừng tre, rừng nứa bên đường với những thân nứa như những cần trúc vươn lên cao rồi uốn cong rủ xuống với những chùm lá xoè ra rất đều từ các đốt, đúng là những sáng tạo hoàn hảo của Tạo hoá ; những bờ lau phơ phất như tự cháy sáng lên dưới ánh mặt trời; những bờ hoa cúc dại vàng tươi nở bạt ngàn bên đường; những bông chuối rừng đỏ như son nổi lên như những nụ cười sơn cước rất tươi trên màu xanh thăm thẳm của núi rừng; những dòng suối đầu nguồn trong vắt len lỏi qua những tảng đá, soi bóng những bông hoa dại trăng trắng hay tim tím lả lay theo dòng nước xiết. Đến Phú Thọ thích nhất là những đồi cọ với những tàu lá lớn xoè ra như tàn như lọng, bóng loáng, dập dờn xôn xao trong nắng gió. Đang giữa thẳm rừng, vui nhất là bỗng bắt gặp một bản làng cheo leo nơi sườn núi. Trời đất như sáng hẳn lên với những ngôi nhà sàn dựng giữa những vườn mơ, vườn mận hoa trắng xoá; những cối nước chậm rãi gieo nhịp chày đều đặn vào cái vắng lặng mênh mông của núi rừng ; những thửa ruộng bậc thang như cắt, như gọt vào sườn đồi, chân núi những đường nét uốn lượn đều đặn nhịp nhàng… Những cô gái dân tộc áo váy chàm, cổ đeo vòng bạc, cắm cúi làm lụng trên nương, trên rẫy, hoặc gùi măng, gùi củi từ rừng về bản…vv… Giữa cảnh núi rừng, nhiều khi, thấy tựa vào vách đá, ẩn dưới gốc cây, một quán nước đơn sơ. Người bán hàng là một cô gái, tuy ăn mặc giản dị nhưng chưa xoá hết vẻ thanh lịch thị thành. Chúng tôi bèn tưởng tượng ra những thiếu nữ từng sống cuộc sống phong lưu nơi thành thị, do cơn binh lửa mà trôi dạt tới nơi âm u heo hút này để sống một cuộc sống lam lũ thiếu thốn. Trong lòng thằng học sinh liền nổi lên một mối tình trắc ẩn, một niềm cảm khái rưng rưng đầy chất thơ lãng mạn:

Cũng có kẻ màn loan trướng huệ
Những cậy mình cung quế phòng hoa
Một phen thay đổi sơn hà
Tấm thân chiếc lá biết là về đâu!
(Nguyễn Du)

***

Đến trường Trung học kháng chiến, việc đầu tiên của tôi là đi gặp “ba” Khang để xin học bổng. “ Ba” nói hết suất rồi, nghĩa là từ chối. Được Sán phổ biến kinh nghiệm, tôi cứ kiên trì bám riết lấy ông, không chịu bỏ cuộc. Ông đi xem xét việc xây dựng các lớp học, tôi cứ lẽo đẽo theo sau. Ông quay lại gắt: “Anh cứ đòi cái người ta không có là nghĩa làm sao! Cụ Hồ không có con gái mà anh cứ đòi làm rể ông Cụ có được không?”

Gắt gỏng mà lại pha giọng đùa như thế là không phải gắt thật sự rồi. Đúng là như thế. Vì cuối cùng tôi đã được cấp học bổng.

Hồi ấy, chưa thấy có chuyện lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tư tưởng, lãnh đạo văn hoá văn nghệ chặt chẽ như sau này. Vì thế chúng tôi sinh hoạt, ăn nói rất tự do, có thể gọi là “vô chính trị”. Những buổi liên hoan văn nghệ, vẫn thích hát những bài ca lả lướt, tình tứ, vẫn ngâm thơ tình lãng mạn của Xuân Diệu:

Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài…

Mấy năm sau, khoảng từ 1951, 1952 trở đi, học sinh chỉ cần đọc dấu diếm một bài “Thơ mới” lãng mạn hay một cuốn tiểu thuyết nào đó của Tự Lực Văn Đoàn, nhà trường bắt được, là có thể bị kỷ luật, thậm chí bị đuổi học.

Ta hiểu vì sao, trước năm 1950 có thể ra đời những bài thơ như Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, truyện Chùa Đàn, tập tuỳ bút Đường vui của Nguyễn Tuân…Mấy năm sau, những tác phẩm này đều bị qui kết là “ mộng rớt”, “ngắm rớt”, “nhắm rớt”, “ buồn rớt” hoặc chủ nghĩa “yêng hùng”, nghĩa là những biểu hiện khác nhau của cái gọi là khuynh hướng “lãng mạn tư sản”. Và tất nhiên những tác phẩm ấy không được phép có chỗ đứng trong sách giáo khoa văn học được biên soạn trước thời kỳ đổi mới (1986).

Năm 1947, giặc Pháp mở một cuộc tấn công đại qui mô lên Việt Bắc nhưng bị đánh bại. Đó là chiến thắng vang dội đầu tiên của quân dân ta từ ngày toàn quốc kháng chiến.

Một hôm, hình như vào đầu năm 1948, chúng tôi thấy một sĩ quan quân đội cưỡi ngựa đến trường, có một vệ sĩ đi theo. Trông oai vệ lắm! (Hồi ấy những sĩ quan quân đội cấp bậc tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, áo bốn túi, đeo súng ngắn, là niềm mơ ước của các cô gái xinh đẹp). Chúng tôi được giới thiệu đó là ông Đào Văn Trường (sau này được phong tướng). Ông đến nói chuyện với giáo viên, học sinh về chiến thắng thu đông 1947. Ông treo bản đồ lên bảng, chỉ vào bản đồ mà thuyết giảng về các trận đánh. Nội dung khá hấp dẫn, chúng tôi vỗ tay luôn luôn. Sau cuộc nói chuyện ít ngày, chúng tôi được biết, ông Trường đã chiếm luôn được trái tim cô Diễm Tuyết, hoa khôi của trường. Chúng tôi ngã ngửa người, nói đùa với nhau một cách cay đắng: “ Hôm trước chúng mình đã hăng hái vỗ tay một cách dại dột”.

Vào khoảng cuối năm 1948, giặc Pháp nhảy dù xuống Việt Trì. Chiến sự có thể lan rộng. Nhà trường quyết định sơ tán các lớp học vào rừng sâu. Nơi sơ tán gọi là Núi Sất, cách Đào Giã khoảng sáu, bảy cây số gì đó. Một vùng rừng núi rất âm u. Đêm nghe tiếng hổ gầm. Sáng dậy, thấy nhiều vết chân hổ ngay chung quanh các lán ở của học sinh. Ở đây, có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên là đã gặp hổ giữa rừng.

Hôm ấy, tôi từ núi Sất đi về Đào Giã để lĩnh học bổng. Nhiều phòng ban của trường vẫn làm việc ở cơ sở cũ. Đường đi xuyên rừng phải qua chín con suối, gọi là đường “chín suối” – cái tên thật dễ sợ. Tôi ngờ rằng đấy chỉ là chín khúc của một con suối chảy vòng vèo quanh đi quanh lại trong rừng. Khởi hành từ sáng nhưng khi trở về thì trời đã ngả về chiều. Đến quãng chỉ còn cách núi Sất khoảng ba cây số, cách hai con suối, tôi trông thấy một con hổ rất lớn đi ngang qua đường. Đúng là một Chúa Sơn lâm oai vệ, thân màu vàng, vằn đen sẫm. Nó đi chậm chạp, ung dung. Tôi sợ quá. Trong tay chỉ có một cái gậy ngắn để khua khoắng phòng khi gặp rắn rết gì đó. Cây cối bên đường thì toàn lau sậy và nứa. Không có cây lớn để leo lên. Đi tới thì sợ, đi lùi thì đường xa và rất có thể lại gặp một chú hổ khác! Thật là tiến thoái lưỡng nan. Nhưng số tôi hình như có quí nhân phù trợ nên đứng tần ngần một lúc bỗng thấy có một đoàn người dân tộc thiểu số đi tới. Tôi nói với họ là vừa thấy hổ đi qua. Họ dừng lại, trao đổi gì đó với nhau bằng tiếng dân tộc rồi quyết định quay trở lại. Hình như họ cho là có dấu hiệu động rừng. Tất nhiên, tôi đi theo họ.

Vùng núi Sất bây giờ chắc khác hẳn rồi. Nhưng hồi ấy đúng là “ u tì quốc”. Dân ở đây không biết thuộc sắc tộc gì, hình như là Mán Cao Lan, đời sống rất nghèo khổ, lại bị bệnh sốt rét hoành hành, người xanh xao, gầy còm.

Những cô gái mười bẩy, mười tám tuổi mà tưởng như cô bé con chỉ có da bọc xương. Đời sống quá cực khổ như thế, có lẽ con gái mất cả tuổi dạy thì.

Ở núi Sất một thời gian thì trường giải tán. Nhiều bạn gia nhập quân đội. Tôi vì có tật ở chân từ nhỏ, đành phải tìm đường trở về nhà. Tôi đi cùng với hai bạn nữa, cùng về Thái Nguyên. Chúng tôi đi qua Đoan Hùng men theo sông Lô về phía Bình Ca, đáp phà sang Sơn Dương (Châu Tự do) rồi vượt qua đèo Khế về Thái Nguyên. Những vùng chúng tôi đi qua, dân chúng sơ tán hết, làng xóm vắng tanh. Tất nhiên chẳng có hàng quán nào cả suốt dọc đường. Qua Đoan Hùng thấy xác mấy cái tầu chiến Pháp bị bắn đắm còn nổi lập lờ trên sông Lô. Tôi nhớ, lúc ấy đói quá, chúng tôi vào những vườn bưởi: bưởi lúc lỉu trên cây, bưởi rụng đầy đất, những trái bưởi đặc sản nổi tiếng đất Đoan Hùng, Phú Thọ bầy ê hề ra trước mắt. Chúng tôi xà vào, ăn hết quả này đến quả khác, ăn chán rồi, mỗi thằng lại xâu mấy trái đeo vào ba lô làm lương ăn đường. Tất nhiên là chẳng thay cơm được nên vẫn đói, đói cồn cào ruột gan.
Qua đèo Khế, thấy ở bên đường thỉnh thoảng có những vạt vườn bỏ hoang. Chắc là nơi ở cũ của đồng bào nào đấy bỏ đi đã lâu. Chúng tôi vào đó kiếm cái ăn. Chẳng có gì cả, chỉ có mấy cây mít, nhưng trái còn non lắm, gọi là dái mít. Mặc, cứ vặt cho vào miệng. Nhưng ăn vào ruột càng cồn cào hơn.
Gần hai ngày đường, đi mãi đến tận chân đèo Khế thuộc địa phận Thái Nguyên mới thấy có người, có hàng quán. Tất nhiên, chúng tôi “đánh” một bữa ra trò và chưa bao giờ thấy ngon miệng đến thế.

***

Tôi về đến nhà giữa lúc gia đình quẫn bách. Chị Tần tuy bị thương tật ở vai, vẫn phải xoay xoả nuôi cả gia đình. Chị Thuý dạy học, người ta trả lương bằng thóc, nhưng hết tháng cũng chẳng có, vì nhà nước nợ lương (!). Đời sống dân tản cư hồi này rất khó khăn. Có một gia đình người Hà Nội cũng tản cư lên chỗ chúng tôi (dốc Đình, Đại Từ), cũng mở một quán nước kiếm ăn lần hồi. Hai vợ chồng còn trẻ có một ông bố già. Không hiểu tình cảnh cùng quẫn thế nào mà ông cụ vào rừng thắt cổ chết.
Không phải ngẫu nhiên mà khoảng những năm 1949, 1950, 1951 có một phong trào “dinh tê” trong đám dân tản cư. Chị cả tôi cũng “dinh tê” trong dịp này. Mẹ tôi cũng liều lần về Quảng Lãm xem có kiếm được ít thóc lúa nào không. Nhưng chẳng ăn thua gì.

Cảnh nhà như thế, tôi là một thằng con trai đã lớn, chẳng lẽ cứ ngồi ăn bám gia đình ngày hai bữa, dù chỉ là cơm độn ngô, độn sắn! Mẹ tôi bàn với tôi xin đi dạy cấp một trong làng. Tôi cũng thấy xuôi xuôi. Nhưng giữa lúc ấy, có tin ở Lục Ba (Đại Từ) người ta mở trường cao đẳng mỹ thuật (khoá Tô Ngọc Vân). Tôi bèn tìm đến xin học. Từ lâu tôi rất thích vẽ và cũng có chút năng khiếu. Vả lại, thành hoạ sĩ hay không, lúc ấy, chưa quan trọng. Quan trọng là không phải ngày hai bữa ăn bám gia đình.

Từ nhà tôi đến Lục Ba không xa. Hoạ sĩ Nguyễn Khang phụ trách thường trực. Xem chừng trường rất cần có người học nên ông hoạ sĩ thường trực thấy tôi thì mừng lắm. Ông động viên tôi: “Ở đây ta có thể vào rừng lấy măng thêm vào bữa ăn”. Ý nói tuy thiếu thốn nhưng vẫn có cách tự cải thiện. Nhưng tôi không trở lại nữa, vì nhiều người khuyên không nên học cái nghề vẽ vạch ấy làm gì. Thời buổi chiền tranh này, vẽ vạch thì sống thế nào, phù phiếm quá!

Rất may là tôi có một ông cậu em họ mẹ tôi làm phó chủ tịch tỉnh. Ông xin cho tôi vào công tác ở một cơ quan của đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đóng ở Thịnh Đán, thuộc vùng ngoại ô thành phố Thái Nguyên.
Hồi này đảng chưa ra công khai. Cơ quan tôi đến công tác gọi là “Ban tài chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên”. Nghĩa là phụ trách cung cấp tài chính cho đảng như kinh phí hoạt động của các cơ quan đảng hay lương của cán bộ đảng…vv…

Theo chỗ tôi được biết thì các nguồn thu nhập tài chính của đảng gồm: tịch thu và phát mại hàng hoá buôn lậu từ vùng địch ra vùng kháng chiến, xây dựng một số xí nghiệp nhỏ để kinh doanh, chẳng hạn như làm giấy, chế tạo nông cụ… Tất nhiên là kỹ thuật hết sức thô sơ.

Ở cơ quan đảng, lúc đầu tôi được giao phụ trách văn thư. Chả có việc gì, hết sức nhàn rỗi. Đây là nơi tập trung nhiều sách báo: sách chính trị, sách triết học Macxít, tạp chí văn nghệ, báo Nhân dân, Cứu quốc…vv… Tôi suốt ngày ngồi đọc, rất mê cuốn Triết học sơ giản của Polizer, cuốn Chính trị kinh tế học của Ségal, rồi sách của Staline, Jdanov, những tiểu luận phê bình của Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, tuỳ bút của Nguyễn Tuân…vv… trên tạp chí Văn nghệ…

Thấy tôi rỗi việc, suốt ngày đọc sách, thủ trưởng cơ quan nảy ra một ý: nhờ tôi soạn bài nói chuyện với anh chị em cán bộ công nhân của các cơ sở đảng quanh vùng: Xuởng in, xưởng giấy, xưởng chế tạo nông cụ… Dựa vào sách báo đọc được, tôi nói về những vấn đề văn học nghệ thuật mà tôi cho là không đến nỗi khô khan, có thể mua vui cho anh em được. Tôi không nhớ hồi ấy đã ba hoa những gì đối với một đối tượng văn hoá thấp như anh chị em công nhân thời kháng chiến chống Pháp. Hình như tôi nói thiên về những thứ lý luận mới học được thì phải. Vậy mà cũng thấy được hoan nghênh, và tôi lúc ấy cũng tỏ ra tự đắc lắm. Té ra mình cũng có tài ăn nói đấy chứ! Bây giờ nghĩ lại mới thấy vô lý.

Người ta vỗ tay hoan nghênh chắc là để lấy lòng mình mà thôi. Ở cơ quan này, thỉnh thoảng cấp trên lại cử về một vài cán bộ lý luận huấn luyện cho anh em về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Tôi cũng được tham gia. Tôi còn được học điều lệ đảng cùng với các đảng viên. Nhưng khi chi bộ tuyên truyền tôi vào đảng thì tôi từ chối. Lúc ấy tôi cho rằng vào đảng thì mất tự do. Tôi công tác ở cơ quan này chỉ là tạm bợ, học hành dở dang, còn phải tiếp tục học nữa chứ. Vào đảng để bị trói buộc hẳn ở đây à! Thời gian này (trước 1950), vào đảng rất dễ. Các chi bộ, đảng bộ thi đua phát triển đảng. Hồi ấy trong quan niệm của những người như tôi, đảng không cao giá, không thiêng liêng như mấy năm sau này. Có lẽ một phần vì đảng chưa ra công khai, người ta chưa biết vai trò độc quyền, độc tôn của tổ chức đảng, của người đảng viên trong mọi công việc lớn nhỏ của đất nước và chưa thấy rõ vào đảng thì được lợi những gì.

Cơ quan đóng ở nhà dân. có dựng thêm nơi làm việc và bếp ăn. Cán bộ, nhân viên không có lương lậu gì cả. Ngoài hai bữa cơm tập thể, mỗi người chỉ được phát một ít tiền, không nhớ là bao nhiêu, chỉ biết đủ để cắt tóc và thỉnh thoảng ăn một tấm bánh, cái kẹo, hút vài điếu thuốc ở quán nước ngoài Thịnh Đán. Vì thế bà chị hai của tôi ở Dốc Đình vẫn phải gửi cho quần áo mặc. Và bà chị cả lúc ấy chưa “dinh tê”, ngày ngày bán hàng xén ở chợ thị xã, thỉnh thoảng lại tạt qua cơ quan, gọi ra, dúi cho một tấm bánh.
Cán bộ cơ quan phần lớn rất trẻ nên sinh hoạt rất vui. Lâu rồi, không còn nhớ được chi tiết gì nữa. Loáng thoáng chỉ còn mường tượng vài gương mặt: anh Tấn có vẻ trí thức, nói chuyện hay liên hệ đến một vài nhân vật trong tiểu thuyết Pháp, anh Thái phổ biến kinh nghiệm ăn cơm sao cho tránh được sạn: chan nhiều nước rau vào, lấy đũa khuấy cho sạn lắng cả xuống đáy rồi hãy xúc cơm ăn. Cậu Nhân chuyên đánh máy chữ. Một anh không nhớ tên, người to lớn, gốc miền Nam, thường mặc quần áo bà ba đen, chuyên ngồi gác một kho xà phòng không biết tịch thu được ở đâu. Anh nói từng hoạt động thời cách mạng tháng Tám ở Quảng Ninh. ở đấy, người ta chặt đầu người như chặt củ chuối. Cô Phương, cậu Dật hay đùa vui với nhau. Mỗi lần Dật trêu ghẹo gì đó, cô Phương mắng: “chơi kiểu gì đấy?”, Dật trả lời “ Kiểu ban tài chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên”. Mọi chuyện chỉ còn nhớ mang máng thế thôi. Duy có ấn tượng không thể quên được là không khí hết sức ấm áp, thân mật giữa những người trẻ tuổi rất hồn nhiên và lạc quan.

Trước sau thì cái chí của tôi vẫn là phải tiếp tục đi học. ở cơ quan Ban tài chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên được ít lâu, được tin người ta mở trường Sư phạm trung cấp trung ương ở Tuyên Quang, tôi liền xin phép cơ quan cho đi học.

Cuộc đi Tuyên Quang lần này cũng không kém phần phiêu lưu. Vì thật ra chưa rõ tiêu chuẩn tuyển sinh thế nào và ngày khai giảng cũng lơ mơ. Nhưng cứ đi, đến đâu hay đó. Tôi không nhớ, trong hoàn cảnh nào mà lại gặp được một anh bạn cùng đi. Anh ta tên là Quang, con một gia đình có quen biết với gia đình tôi hồi còn ở phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Cũng chả thân thiết gì lắm. Nhưng hồi chiến tranh là thế, quen ít cũng thành quen nhiều, sơ giao cũng thành thâm giao. Quang cũng đang học hành dở dang và rất hăng hái học tiếp. Anh ta là một đầu óc còn phiêu lưu và lãng mạn hơn tôi nữa kia.

Đến Tuyên Quang chúng tôi mới biết phải còn một tháng nữa trường mới gọi học sinh nhập học. Một tháng nữa, sống thế nào đây? Rất may, Quang là một tay tháo vát và có phần liều lĩnh. Anh ta gạ gẫm thế nào mà một gia đình ở ngay thị xã nhận cho chúng tôi ở nhờ, nhân tiện kèm cặp một cô con gái đang học cấp II và một cậu con trai đang học lớp một, trả công: Cơm nuôi ngày hai bữa. Tôi còn nhớ gia đình này gọi là gia đình bà Nhuần (có lẽ gọi theo tên cô con gái của bà).

Ở thị xã Tuyên Quang ít ngày thì mùa lụt đến. Thị xã Tuyên Quang ở ngay bờ sông Lô, hình như năm nào cũng bị lụt. Tôi thấy người ta ào ào chạy đi nhổ rau trồng ở bãi sông quăng lên đường phố bán chạy một cách rẻ mạt. Quang cảnh những ngày lụt ở Tuyên Quang thật là náo nhiệt. Chúng tôi thì tha hồ được “cải thiện” bằng món rau luộc rẻ tiền.

Ngày nhập học đã đến. Chúng tôi lên đường tìm đến trường. Trường đặt ở một khu lán trại của bọn hàng binh Âu Phi vừa rút, gồm mấy dẫy nhà lá, vách đất nhồi rơm (torchis), một hội trường lớn, một căn nhà sàn mượn của dân dành cho nữ sinh, một sân vận động. Địa điểm trường thuộc thôn Cảm Nhân, xã Mỹ Gia, huyện Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Cách trường độ sáu bảy cây số có một thị trấn nhỏ gọi là Chợ Ngọc kề bên bờ sông Chảy. Ở đây có chợ búa và nhiều hàng quán, đặc biệt, tôi nhớ có món phở chua. Gần hơn, cách trường chỉ độ hơn cây số là phố Cảm Nhân, thuộc xã Mỹ Gia, cũng có vài hàng phở, quán nước.

Ngoài ra là rừng, và rải rác gần xa, có những làng bản người Tày, dân cư thưa thớt, sống trên những ngôi nhà sàn nằm giữa những vườn mơ, vườn mận… (Ngày nay tất cả đều bị đánh chìm xuống lòng hồ thuỷ điện Thác Bà).

Giáo viên của trường hầu hết đều từ trường Trung học kháng chiến Đào Giã chuyển tới, nên có thể coi trường chuyên khoa Đào Giã Phú Thọ là tiền thân của trường Sư phạm trung cấp trung ương Tuyên Quang. Tuy nhiên không thấy có thầy Trần Văn Giáp và “ ba” Khang. Người mới thì có thầy Nguyễn Lương Ngọc, thầy Văn Tân, Vũ Trương Dự, Lê Bá Thảo, Nguyễn Đăng Thiệp… Hiệu trưởng là thầy Nguyễn Văn Chiển, hiệu phó là thầy Nguyễn Lương Ngọc.

Từ ngày học cấp hai trường tư thục Gia Long sơ tán về thị xã Thái Bình, nay tôi mới được gặp lại thầy Ngọc. Thầy vẫn rất hiền. Thầy nhận tôi vào lớp 9, vì tôi đã học năm thứ hai trường trung học chuyên khoa. (hồi ấy lớp 9 là lớp cuối cấp của bậc phổ thông trung học.) Còn Quang thì bị loại. Nhưng anh ta cứ nhất quyết bám lấy trường với hi vọng vu vơ là rồi sẽ xin được vào học. Anh ta tìm đến một nhà dân ở gần trường xin làm gia sư để tá túc một thời gian, mãi đến khi hoàn toàn hết hi vọng mới bỏ đi. Đúng là một đầu óc phiêu lưu và lãng mạn.

Thời gian học ở trường sư phạm trung cấp trung ương, nói về sinh hoạt vật chất, là những ngày cực khổ nhất của đời tôi. Tôi chỉ nói về sinh hoạt vật chất thôi, vì về tinh thần vẫn rất vui. Đây là thời kỳ đùa tếu, nghịch ngợm nhất của tôi. Thời kỳ làm báo, vẽ tranh, diễn kịch vui, phát biểu những câu ngang ngược trong những cuộc họp (đại khái như đề nghị cho ăn thịt trâu già để trâu non sản xuất, hoặc ăn thịt chó theo quan điểm Mác Lênin…), thời kỳ phá nội quy, trốn ra các hàng quán ăn quà rồi gán luôn áo mặc trên người hay bút máy…

Hồi ấy những vật phẩm công nghệ dưới xuôi rất được đồng bào miền núi ưa thích, như bút máy, bật lửa…vv… Tôi có người anh đi bộ đội gửi cho một cái áo chiến lợi phẩm của lính Marốc (gọi là lính tabor) rộng thùng thình. Lâu ngày không được ăn uống tử tế, tôi bèn rủ một thằng bạn ra quán đánh một bữa no say rồi cởi áo gán luôn.

Vui thì có vui, nhưng khổ thì thật khổ. Quần áo có vài bộ, mặc mãi cũng rách, bèn lấy chỉ buộc túm, hoặc lấy hồ dán những chỗ thủng. Mùa rét, chỉ có một chiếc áo trấn thủ bằng vải nâu và một tấm chăn chiên mỏng. Giường thì lấy lá chuối khô làm nệm, đốt củi lấy than cời bên dưới. Giầy dép không có, guốc cũng không, phải lấy gỗ củi đẽo làm guốc. Có anh mùa rét không có áo ấm, cứ ngang nhiên khoác chăn ngồi trong lớp học. Ăn uống thì thường là cơm độn sắn lại ăn với canh sắn… Hàng tuần được một bữa ăn tươi, mỗi người được phát một tảng thịt trâu luộc, ai muốn đẽo, muốn thái thế nào, tuỳ. Để cải thiện thêm, người thì đi đào măng trong rừng, người thì kiếm rau tàu bay về nấu với muối trong ống bơ hay ca nhôm. Thèm ăn quá mà không có tiền, chúng tôi thường đem suất dầu (dầu chẩu thắp đèn) nhà trường phát ra phố bán lấy tiền đổi lấy tấm bánh, bát phở hay nắm xôi của bủ So (một bà mẹ người dân tộc thường đem đến bán cho học sinh những gói xôi sắn.) Có người mò ra nhà đồng bào dân tộc gạ gẫm bữa cơm, bữa xôi. Tình cảnh hết sức nhếch nhác, bệ rạc. Cố nhiên không phải ai cũng vậy. Có những học sinh nhận được tiếp tế của gia đình từ vùng xuôi, vùng tề gửi ra. Thường là nữ sinh. Họ vẫn ăn mặc sạch sẽ, giày dép đàng hoàng và vẫn có đồng ra đồng vào. Các cô còn có cả vàng nữa kia. Do xẩy ra một vụ mất cắp trên đường di chuyển của trường mà mọi người biết được. Hồi ấy loại người như chúng tôi không bao giờ dám mơ ước đến họ và nghĩ bụng, chắc họ coi mình như rác. Những cô gái xinh đẹp, lại phong lưu thường rất kiêu ngạo…

Sinh hoạt như thế lại ở nơi rừng núi, nên chúng tôi hầu hết không tránh khỏi sốt rét. Những cơn sốt rung cả giường chiếu mà chẳng có ai săn sóc, chẳng có gì bồi dưỡng. Thường chỉ tự cải thiện bằng bát canh rau rừng nấu với muối cho đỡ háo. Thuốc men thì sốt nhẹ được uống mấy viên quinacrine màu vàng, sốt nặng thì được tiêm nửa ống quinoforme. Thày Nguyễn Lương Ngọc thường đích thân xuống tiêm cho chúng tôi. Tiêm tĩnh mạch gọi là tiêm ven (veine).

Thuốc không sẵn nên một ống thuốc phải chia làm đôi tiêm cho hai người. Nhiều khi mạch chìm quá, thày chọc kim vào rồi mà mò mãi không thấy ven. Những lúc ấy chắc thày thương chúng tôi lắm, và chúng tôi cũng rất thương thày.

Thầy Ngọc thật hiền. Nội qui của trường cấm không cho học sinh ra khỏi khu vực trường mà không xin phép. Danh giới khu vực trường là một con suối, vượt qua con suối ấy là ra phố Cảm Nhân. Có lần tôi và vài thằng bạn lần ra chơi ở Cảm Nhân, ăn quà xong, sẵn giường chiếu ở quán hàng, bèn làm một giấc. Khi tỉnh dậy thấy thầy Ngọc ngồi ngay bên cạnh. Chà! Mấy thằng vừa sợ vừa xấu hổ. Nhưng thầy Ngọc không hề mắng mỏ gì, chỉ khuyên bảo nhẹ nhàng mấy câu rồi lẳng lặng quay về trường.

Thầy Ngọc tính điềm đạm, ít nói, vẻ trầm lặng. Bây giờ tôi không còn nhớ rõ thày đã dạy chúng tôi những gì trong giờ văn. Hình như thày có nói về Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông thì phải. Hồi ấy những bài như Tây tiến của Quang Dũng, Màu tím hoa sim của Hữu Loan đã bị phê phán là “ mộng rớt”, “buồn rớt”, Đường vui của Nguyễn Tuân thì bị quy là vẫn thể hiện cái máu giang hồ xê dịch, chưa thoát khỏi chủ nghĩa duy mỹ và thói “ ngắm rớt”, “nhắm rớt”.

Còn thơ chính trị, thơ viết về công nông binh cuả Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Tố Hữu…vv, chắc thầy chưa thưởng thức được. Trong tâm hồn của thầy, tôi đồ rằng vẫn sinh sống những áng văn chương cũ. Tôi đoán thế, vì năm ấy, ở lại trường ăn Tết âm lịch với chúng tôi, thầy tập hợp chúng tôi lại, kể cho nghe về tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất (à la recherche du temps perdu) của Marcel Proust. Và có lúc tôi nghe thầy ngâm khe khẽ những vần thơ rất buồn của Vũ Hoàng Chương:

Gió lùa gian gác xép
Đời tàn trong ngõ hẹp…
(…) ôi lòng ta sao buồn không nguôi?
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi…

Ở Sư phạm trung cấp trung ương hồi ấy, chúng tôi còn được gặp ông Hoài Thanh. Hình như ông công tác ở một cơ quan nào đó thuộc bộ văn hoá thì phải. Cơ quan này cũng đóng ở thôn Cảm Nhân, Mỹ Gia. Vì tôi thấy loáng thoáng ở đấy có các ông Phan Khôi, Thế Lữ, và một số trí thức khác. Thế Lữ có lần tập cho học sinh sư phạm diễn vở kịch Đề Thám xuất quân và vở “Bõ già” của ông.

Hoài Thanh ở một ngôi nhà tranh gần khu trường Sư phạm quay lưng ra một con suối nhỏ. Lúc ấy, các anh Nguyễn Đức Dũng (Từ Sơn), Nguyễn Đức Hân (Phan Hồng Giang) còn nhỏ, tôi thấy các cậu thường đùa nghịch bên bờ suối hoặc leo trèo cây cối quanh nhà. Có lần ông Hoài Thanh đến trường nói chuyện với chúng tôi về thơ ca kháng chiến, có bà Phan Thị Nga là vợ ngồi bên. Ông nói nhỏ nhẹ nhưng say sưa. Bà Nga ngồi cạnh, thỉnh thoảng lại giục chúng tôi: “Ghi đi chứ!”, “Ghi đi chứ!”

Học sinh chúng tôi thỉnh thoảng tổ chức liên hoan văn nghệ, chủ yếu là ca hát, hoặc làm trong hội trường, hoặc đốt lửa trại diễn ngoài sân vận động. Tôi nhớ có đóng góp một vở kịch rất tếu, tất nhiên là kịch cương. Kịch tuyên truyền bình dân học vụ. Hồi ấy, để động viên đồng bào đi học chữ quốc ngữ, ngày phiên người ta thường ngăn người lại ở cổng chợ. Ai đọc được chữ thì cho vào cổng chính, ai không đọc được thì phải chui qua một cái lỗ nhỏ và thấp gọi là “cổng mù”. Ca dao kháng chiến thì có những câu rất vui, đại thể như:

Em về anh chẳng cho về
Anh níu vạt áo anh đề câu thơ
Vì anh mới học i tờ…

Tôi bèn nghĩ ra một vở kịch cũng để phục vụ bình dân học vụ và đã huy động được cả lớp diễn tập thể trong một đêm liên hoan ngoài trời. ấy là vở Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Vua Hùng có một con gái mà có hai thần đến xin làm rể. Cả hai đều tài giỏi, biết chọn ai? Vua Hùng bèn cho hai thần đấu võ với nhau. Lớp chia làm hai phe, mỗi phe làm quân của một thần. Hai thần dùng đến cả những ngón chẳng “anh hùng” tí nào, như cắn nhau, cù nách nhau. (tếu thế cho vui) Nhưng rút cục vẫn bất phân thắng bại.

Vua đành cho hai thần tạm nghỉ. Ngài mời hai thần ngồi ghế, uống nước, đọc báo. Sơn Tinh đọc báo làu làu, còn Thuỷ Tinh thì cầm báo ngược, té ra là mù chữ.

Vua Hùng quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh và khuyên Thuỷ Tinh trở về cố học bình dân học vụ để thoát nạn mù chữ.

Trong trường Sư phạm trung cấp, lớp 9 chúng tôi được coi là lớp đàn anh, vẻn vẹn chỉ có khoảng mười lăm người. Mấy năm gần đây, những bạn cùng lớp ở quanh Hà Nội thường tổ chức họp mặt luôn: nữ có Diệu Vân, Phạm Thị Tỉnh, Ngọc Dung, Phượng, Hồng (phần lớn đã goá chồng), nam có Lê Năng An, Mai Bình, Thuần, Tiệp, Lê Mạnh Giao và tôi. Tất cả đều đã trên 70 tuổi. Có người lưng còng gập hẳn xuống, trông rất tội. Những bạn ở xa không có dịp gặp lại nhưng vẫn nhớ: Phú, người nhỏ nhắn, Nhạ, trông như một anh lính nông dân, thường đeo ở thắt lưng chiếc bát ăn cơm bằng gáo dừa ; Huy Giao rất giỏi nhạc, em nhạc sĩ Huy Du ; Nguyễn Bản một anh chàng có vẻ thích sống khép kín. Bản sau này viết văn: có tài, chịu học, có cá tính, lời văn tinh tế, mượt mà. Truyện ngắn của anh thiên về cảm hứng lãng mạn, thường gợi lại kỷ niệm về những mối tình thơ mộng thời học sinh, sinh viên. Vừa rồi anh cho in tập truyện ngắn Nợ trần gian. Nhà xuất bản nhờ tôi viết lời tựa ; Thuỷ Hà, nam mà như nữ, từ tính cách, giọng nói đến cả tên gọi đều rất nữ tính. Kết thúc năm lớp 9 ở chợ Ngọc, Hà “dinh tê” vào Hà Nội rồi vào Nam. Anh sang Pháp học cử nhân toán rồi trở về Sài gòn dạy học. Sau 1975 anh ở lại Sài gòn, một thời gian có hoạt động kinh doanh gì đó. Năm ngoái, anh có ra Hà Nội tìm gặp một số bạn cũ, tình cảm quyến luyến lắm. Già rồi, nhưng tính cách vẫn thế: ăn nói nhỏ nhẹ, bẽn lẽn như con gái. Tôi nhớ ngày xưa, các bạn thường gọi đùa là “Chị Hà”. Thịnh (nữ) lớn tuổi nhất lớp, vợ ông Văn Tân, nhà sử học. Thịnh (nam) trắng trẻo, hiền lành, quá thật thà, hầu như không biết đùa. Không hiểu sao hồi ấy chúng tôi lại gọi là “ Thịnh nhà giàu”. Tô Thanh Thúc và Tô Thanh Tùng là hai anh em ruột cùng học một lớp. Thúc tính hiền lành nhưng hơi lẩm cẩm. Anh tự phong là thầy lang và rất nhiệt tình “bốc” cho chúng tôi những thang thuốc bằng toàn những thứ hoa quả, lá lẩu có thể hái lượm được ở quanh trường, như chanh, ớt, mơ, mận, rau thơm…vv… Anh nói mỗi thứ có chứa một lượng vitamin khác nhau. Tuỳ theo thể trạng của mỗi người, anh “bốc” cho những “vị”khác nhau, nghĩa là “hành nghề” nghiêm chỉnh hệt như một thầy lang chính hiệu vậy. Đúng là một tay có máu gàn. Tùng thì khác, lanh lẹn, thông minh, làm gì cũng hăng hái, sôi nổi… Tùng rất tài hoa, chơi guitare khá lắm. Tôi thường gạ Tùng đánh cho nghe bài “ Phiên chợ Ba Tư”…

Đầu năm 1950, trường sư phạm trung cấp trung ương được lệnh chuyển sang khu học xá Việt nam ở Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc).

Trường di chuyển qua nhiều trạm. Trạm thứ nhất ở một vùng nông thôn cũng thuộc huyện Yên Bình, gần phía thị xã Yên Bái. Chúng tôi ở đây một thời gian khá lâu rồi mới chuyển đi Lạng Sơn. Chúng tôi dừng lại ít lâu ở một địa điểm thuộc huyện Bắc Sơn, kề bên một hang đá lớn, phòng khi có máy bay địch thì chạy vào ẩn. Đây là trạm dừng chân cuối cùng của chúng tôi trước khi vượt biên giới. Từ đây, chúng tôi được phiên chế theo tổ chức quân đội, chuẩn bị một cuộc hành quân sang Trung Quốc. Tôi được phong làm đại đội phó. Sáng sáng cũng đứng nghiêm báo cáo quân số. Tiểu đội báo cáo trung đội. Trung đội báo cáo đại đội. Một trung đội trưởng là Đoàn Trọng Huy, hàng ngày phải đứng nghiêm, chào theo lối quân sự và báo cáo tôi. Chỉnh đốn xong hàng ngũ, tôi phát biểu một số nhận xét trước “hàng quân”, như một chính trị viên. Thường nhận xét lăng nhăng về tình hình tư tưởng của đại đội được phản ánh qua báo tường.

Tôi nhớ trong đại đội có Tô Linh, con ông Tô Dĩ (Lê Giản) vẽ giỏi, được giao minh hoạ bích báo.
Nghỉ lại một thời gian ở Bắc Sơn, chúng tôi lên đường đi Trung Quốc.

Chúng tôi hành quân bộ tới Đồng Đăng, từ Đồng Đăng qua Mục Nam quan sang thị trấn ải Khẩu, từ ải Khẩu đến Bằng Tường. Từ Bằng Tường thì được đi ô tô tới Nam Ninh.

Cuộc hành quân bộ của chúng tôi phải nói là rất nhếch nhác. Có người đi đất, guốc dép không có. Sợ máy bay nên đi đêm. Mỗi người xách một cái đèn dầu, đặt trong một ống bương có khoét mấy cái khe cho ánh sáng lọt ra một cách hạn chế.

Từ Bằng Tường tới Nam Ninh, xe ô tô phải đi mất hai ngày. Ngày thứ nhất dừng lại nghỉ ở một địa điểm gọi là Minh Ninh. Ở đây chúng tôi được chiêu đãi một bữa tiểu táo hay đặc táo gì đó. Đã lâu không được một bữa như thế, nhiều anh không tiêu hóa được, đứng sắp hàng nối đuôi nhau trước nhà vệ sinh (vẫn có giải phóng quân đứng gác để bảo vệ).

Khu học xá Nam Ninh đóng tại một vùng nông thôn gọi là Tâm Khư thuộc tỉnh Quảng Tây, cách thành phố Nam Ninh mấy cây số.

Đây chỉ là địa điểm tạm thời. Ngoài một số nhà gạch, chắc mượn của địa phương dùng làm hiệu bộ và nhà ở cho giáo viên và nữ sinh, còn thì là những nhà lợp lá, cột kèo bằng cây que còn để nguyên cả vỏ buộc vào nhau bằng những nút lạt, dùng làm lớp học và nơi ở của học sinh nam.
Việc ăn uống thì có cấp dưỡng người Trung Quốc lo. Đến bữa, họ gánh cơm canh đến, ăn xong lại dọn đi. Buổi sáng thì ăn bánh bao.

Quần áo, trang phục thì mỗi người được phát một bộ quần áo bông, một mũ bông có lưỡi trai, một đôi giày vải, một chăn bông, tất cả đều màu xanh công nhân. Anh nào chị nấy xúng xa xúng xính, lấy làm sung sướng lắm. Đang trong thời chiến tranh, hoàn cảnh vô cùng cực khổ, thiếu thốn, bỗng được sống trong hoà bình, được phục vụ như thế, được cấp phát như thế, thì đúng là một sự hậu đãi quá sức tưởng tượng. Ai nấy đều xúc động biết ơn Bác Mao vô cùng.

Tâm Khư cũng có một thị trấn nhỏ gồm nhiều cửa hàng tạp hoá, hàng ăn.

Ở Tâm Khư, một lần nữa tôi lại thấy một bằng chứng về sự ở bẩn của người Tầu. Nhà ở của dân thường là nhà gạch, nhưng rất thấp và tối tăm. Lợn nuôi ở trong nhà dường như ở chung với người, vì thấy các chú lợn cứ đi ra đi vào rất tự do thoải mái. Lợn thả rông, phóng uế bừa bãi ra sân, ra đường, ra bờ ao.

Người cũng bắc cầu phóng uế xuống ao. Nhưng nước ăn, nước uống đều lấy ở đấy cả. Tất nhiên tắm rửa cũng ở đấy.

Tâm Khư chỉ cách thành phố Nam Ninh độ mươi cây số, vậy mà sao người dân quá lạc hậu. Họ gầy guộc đen đủi, thường mặc quần áo đen. Ra ngoài mỗi người thường trang bị một cái cặp bằng tre để gắp phân. Buổi tối thỉnh thoảng nghe thấy họ hát. Tiếng hát tựa như tiếng hú, nghe vừa thê thảm vừa hoang dã. ở đây người chết người ta cho vào quan tài đặt nổi trên mặt đất. Ngày giỗ, ngày kỵ thì bày cỗ ăn uống ngay chung quanh quan tài…

Tôi ở Tâm Khư vào đúng dịp cải cách ruộng đất. Địa chủ, phú nông, những phần tử bị quy là phản động, tất cả đều phải mặc quần đỏ và bị cưỡng bức lao động cải tạo. Những người chắc là tội nặng thì bị trói díu vào nhau phơi ngoài trời suốt ngày suốt đêm.

Ở khu học xá vào những ngày lễ Tết hay kỷ niệm cách mạng, chúng tôi thường được một bữa ăn tươi, thịt cá ê hề. Thỉnh thoảng lại được ra thành phố Nam Ninh xem chiếu bóng. Chúng tôi sắp hàng đi bộ, có giải phóng quân đi kèm. Thường là phim đề tài cách mạng của Trung Quốc, Liên Xô, như “Cờ hồng trên núi Thuý”, “ Công phá Bá Linh”…

Ở khu học xá Nam Ninh, người lãnh đạo cao nhất là Võ Thuần Nho (em Võ Nguyên Giáp). Thời ấy con người ta dễ phát sinh tâm lý sùng bái cá nhân, một thứ tâm lý bầy đàn rất thích có một thủ lĩnh để tôn thờ. Vì thế Võ Thuần Nho một thời được tôn vinh như một lãnh tụ, một cụ Hồ của khu học xá. Thời ấy một người cũng gây được ấn tượng đậm nét là anh Việt Phương. Thông minh, hoạt bát, nói rất giỏi. Anh thường nói chuyện về lý tưởng thanh niên và được hoan nghênh đặc biệt. Không phải ngẫu nhiên mà có nhiều nữ sinh mê anh. Có cô đã chủ động tỏ tình với anh. Trong số người mê Việt Phương có cả một cán bộ nữ người Trung Quốc.

Hồi ấy ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, chuyện quan hệ luyến ái nam nữ, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân trong cán bộ, học sinh bị coi là trọng tội, nên ở Tâm Khư, riêng nữ sinh được ở trong một ngôi nhà gạch kiên cố, hai bên cửa ra vào có hai giải phóng quân đứng gác nghiêm chỉnh.

Nhưng chuyện ấy vẫn xẩy ra. Đời sống đầy đủ, con người béo tốt hồng hào hơn, thì nhu cầu “ấy” càng cao hơn, có khi càng cấm càng gây bức xúc. Cho nên có bà vợ giáo sư nọ, ở tuổi hồi xuân, thông dâm với một anh y tá, có cô gái xinh đẹp nọ mắc bệnh tâm thần nặng, thế mà khi bị một thằng cha liều lĩnh hãm hiếp đã khỏi hẳn bệnh (cả hai đều bị đuổi về nước)…vv…

Ở khu học xá, tôi và một số bạn học cùng lớp được đề bạt lên làm giáo viên (gọi là giáo sinh) dạy sư phạm sơ cấp. Vì học hết lớp 9 thì coi như đã học xong trung học phổ thông hay sư phạm trung cấp rồi. Học sinh nói chung lớn hơn thầy vì phần nhiều là cán bộ đi học. Chả có sách giáo khoa gì cả. Bài văn giảng lấy luôn trên báo chí một cách rất tuỳ tiện. Bài giảng được soạn tập thể.

Cùng nhóm soạn bài với tôi có Đức Minh làm nhóm trưởng (sau này làm viện trưởng viện khoa học giáo dục), có Lê Năng An, Phạm Thị Tỉnh, Diệu Vân và bà Phan Thị Nga là vợ ông Hoài Thanh…

Vào tháng 6 năm 1952, trên lệnh cho khu học xá Nam Ninh phải tổ chức một đoàn học sinh sư phạm về nước dạy học, gọi là khoá đặc biệt. (bao gồm cả giáo sinh dạy cấp một, cấp hai). Tôi được tuyển vào đoàn này. Cùng đoàn, tôi chỉ còn nhớ có Đỗ Bình Trị, Phạm Luận, Dương Đức Tuấn, Nhạ, Tô Thanh Tùng, Nguyễn Văn Lô, một cô dạy cấp một tên là Bồng (Đỗ Bình Trị yêu cô này, thường ký tên Đỗ Bồng Trị).

Trước khi về nước, chúng tôi được ban giám đốc khu học xá cho đi thăm một khu học xá Việt Nam khác ở Quế Lâm, học sinh phần nhiều là thiếu sinh quân. Ở đây chúng tôi được các cán bộ, nhân viên Trung Quốc đón tiếp rất nồng nhiệt và được chiều chuộng hết nhẽ từ việc ăn uống đến giải trí. Ngủ, có người đến dắt màn cho cẩn thận… Người Tầu quả có truyền thống biệt đãi khi họ thấy cần. Nhưng khi không cần nữa, đá luôn.

Ở khu học xá Nam Ninh tuy đời sống rất đầy đủ, vậy mà chúng tôi rất vui khi được về nước. Đường về rất gian khổ nhưng đầy hào hứng. Đích tập trung của chúng tôi là Sở giáo dục Liên Khu Việt Bắc đóng tại xã Dân Chủ cách thị xã Thái Nguyên độ vài chục cây số về phía Bắc.

Từ biên giới về Thái Nguyên tất nhiên là đi bộ. Những ngày mưa, đường lầy lội, đi rất khổ. Dọc đường, tiện đâu nghỉ đấy, tạt vào nhà dân nhờ nấu cơm ăn và ngủ lại. Nhưng tôi nhớ mọi người đều rất hăm hở, rất tin tưởng và đầy tự hào, y như được đào tạo ở tận khu học xá Trung Quốc là oai lắm, vững vàng lắm cả về chuyên môn và tư tưởng. Và được về nước sớm để phục vụ là vinh dự lắm.

Ở sở giáo dục Liên Khu Việt Bắc, chúng tôi được phân công đi công tác các nơi bằng lối rút thăm. Rút được nơi nào thì đi nơi ấy – gọi là “tam bất kỳ”.

Rút xong, có thể đổi chỗ cho nhau cũng được, miễn là cùng tự nguyện. Riêng ba người: tôi, Tô Thanh Tùng (dạy toán), Nguyễn Văn Lô (dạy cấp một) thì được giữ lại công tác tại sở.