Những bước thăng trầm của công cuộc đổi mới và những vụ “đánh đấm” “qui kết, chụp mũ” của cánh bảo thủ và cơ hội chủ nghĩa.

Năm 1986, nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI chính thức phát động công cuộc đổi mới đất nước. Đời sống văn nghệ chưa bao giờ vui đến thế. Lúc nào cũng như sống trong hội hè. Đúng là không có gì sướng bằng dân chủ thật sự, được tự do nghĩ và nói thực sự.

Trần Độ lên thay Hà Xuân Trường phụ trách Ban văn hóa Văn nghệ trung ương. Hai ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1987, tổng bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh gặp gỡ các văn nghệ sĩ (4 Nguyễn Cảnh Chân). Lần đầu tiên giới văn nghệ sĩ được nghe những lời phát biểu đầy tính kích động tự do dân chủ ở một ông tổng bí thư Đảng Cộng Sản. Nào là “cởi trói”, “hãy tự cứu lấy mình”, “không bẻ cong ngòi bút”, “nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng sự thật”, “giờ không phải lúc bón phân cho lúa, phải nhổ cỏ cho lúa sức mọc lên”, “hồi phụ trách thư Sài Gòn, tôi đã làm chui nhiều việc đấy. Những anh em dưới quyền tôi sợ quá mỗi khi Trung ương về thăm. Tôi nói với họ: Các anh c làm, nếu phải đi tù, tôi vào với các anh”, “hãy giải phóng cho con chim văn nghệ bay cao”..vv…

Những lời lẽ và khẩu khí ấy khiến mọi người không còn nghi ngờ gì ở chủ trương đổi mới thật sự của Đảng. Ông Nguyễn Văn Linh đích thị là Goócbachốp của Việt Nam rồi – chúng tôi lúc đó đều đinh ninh như thế.

Buổi trưa, tổng bí thư ngồi cùng bàn ăn với anh em, mỗi người một bát phở. Buổi tối lại cùng ngồi xem phim Tướng về hưuChuyện tử tế.

Hai ngày liền, ông Linh chỉ nói mấy câu mở đầu còn để cho anh chị em tha hồ phát biểu tự do. Toàn phê phán lãnh đạo làm nhiều chuyện thậm vô lý. Chẳng hạn ái Vân thuật chuyện anh chị em sân khấu khổ cực như thế nào. Cấp phát thì cấp áo, không cấp quần, tất rách không có để thay, khi biểu diễn phải đứng thế nào để che được phía chân đi tất rách. Trong khi người này biểu diễn trên sân khấu thì người khác bán trà chén ở cửa rạp. Ca sĩ Xuân Thanh xưng hô bác cháu với ông Linh, vừa nói vừa khóc: “Đi thi quốc tế, lãnh đạo không cho đi sớm để chuẩn bị, không cho tiền để bồi dưỡng bà giáo Liên Xô tập luyện cho. Nhưng khi được giải thì thu hết tiền.” Hoạ sĩ Nguyễn Thụ tố cáo: “Sang Liên Xô triển lãm tranh, tranh bán được, tiền bị thu hết.” Trường hợp Nguyên Ngọc cũng tương tự. Anh được nhận giải thưởng quốc tế á Phi (Đất nước đứng lên), tiền thưởng cũng bị thu hết, không bớt cho lấy một xu để chiêu đãi những người đến chúc mừng. Anh lại nói, hồi lãnh đạo Văn nghệ ở quân khu năm, cứ vài tháng anh lại phải lên Cục chính trị lĩnh tư tưởng về cho anh em viết. Hết tư tưởng lại đi lĩnh chuyến khác, y như lĩnh tiền hay lĩnh gạo vậy. Phạm Thị Thành thì nói về chuyện duyệt kịch. Mỗi lần duyệt, chị không quan tâm gì đến hội đồng chuyên môn, mà chỉ chăm chú theo dõi một ông to đầu nào đấy vui chân tạt vào xem. Ông ta gật gù là yên trí lớn, ông ta lắc đầu là hỏng bét.Tào Mạt, sau Cách mạng tháng Tám đã là huyện uỷ viên. Nhưng anh không đi tiếp con đường chính trị mà chuyển sang làm văn nghệ. Anh nói, nếu cứ làm chính trị, anh là người tiến bộ, nhưng chuyển sang làm Văn nghệ thì bị coi là phức tạp. Nguyễn Khắc Viện thì nói về những cái án Văn nghệ gọi là “xét lại” “phản động” “gây rối”, “phạm nhân” văn nghệ sĩ phải chịu hình phạt suốt đời. Hồ Ngọc thì lên án lãnh đạo biến văn nghệ thành thứ văn tuyên truyền phục vụ chính trị… Vui nhất là cuộc xung đột giữa Dương Thu Hương và Nguyễn Đình Thi. Hương bảo Thi là đồ hèn, trí thức hèn hạ, đã tự nhận là hạt bụi. Thi thì cho Hương là lưu manh, nhà văn đã đến lúc bị lưu manh hoá. Anh nói: “Đúng, tôi hay nói hạt bụi, giọt nắng, giọt lửa. Nhưng có hiểu gì không – anh gào to – tôi nói nhà văn là hạt bụi có tư tưởng.” Thực ra anh đã không nhắc lại đầy đủ lời anh phát biểu ở đại hội nhà văn lần thứ ba: “hạt bụi lấp lánh tư tưởng của các anh” (vừa nói vừa chỉ tay lên chủ tịch đoàn). ý kiến này chẳng qua cũng là học theo câu nói của một nhà văn Pháp: “con người là cây sậy có tư tưởng.” Tôi cũng phát biểu rất thẳng thắn và thoải mái, đại ý rằng, “tôi đã từng được gặp một ông to, không to bằng anh Linh đâu (ý nói Tố Hữu), tôi thấy ông ấy cứ nói liên miên, chỉ lo ban phát chân lý chứ không nghe quần chúng nói. Nay anh Linh nói ít, để anh em nói nhiều, nội điều đó thôi cũng là rất mới rồi. Về lãnh đạo văn nghệ, tôi cho “lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ”, và dùng lối chăn vịt, “lãnh đạo văn nghệ theo lối chăn vịt đàn.” “con người mà bị khinh bỉ mãi thì tự nhiên cũng thấy mình nhỏ bé lại, cũng hèn kém. Biết tôn trọng con người thì con người tự thấy mình cao lớn hơn.” Tôi lại ví văn nghệ như con chim. “Nhốt lại nó không hót hay hót không ra gì. Thả nó ra nó hót hay hơn, nhưng lại sợ nó bay mất…”

Còn nhiều người phát biểu nữa như mấy anh đạo diễn điện ảnh, Nguyễn Quang Sáng, Lưu Quang Vũ, Anh Đức…, nhưng tôi không còn nhớ. Hồi đó giá có băng ghi âm ghi lại, giờ mở ra nghe thì thật thứ vị. Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu không thấy nói gì.

Về lý luận phê bình văn học, tôi là người duy nhất được dự cuộc gặp mặt này.

Trần Độ gọi cuộc gặp gỡ này là “Hội nghị Diên Hồng của văn nghệ.

Sau cuộc gặp Nguyễn Văn Linh, đời sống văn học nghệ thuật còn sôi nổi và vui hơn nữa với những cuộc tranh luận rất dân chủ trên báo Văn nghệ của Nguyên Ngọc và những cuộc hội thảo rất thẳng thắn chuẩn bị cho nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn nghệ tổ chức thường xuyên ở Ban văn hóa Văn nghệ của anh Trần Độ. Tôi nhớ anh Nguyễn Minh Châu nói, nhà văn Việt Nam cả ba thế hệ đều hèn. Trước Cách mạng là nhà văn nô lệ; từ 1945 đến 1975 là nhà văn – lính, rất sợ cấp trên; sau 1975 là nhà văn đói nên cũng hèn. Anh lại nói Thánh Gióng ngày xưa đánh xong giặc thì bay lên trời. Bây giờ các ông đánh xong giặc lẽ ra cũng phải biến đi để người khác quản lý đất nước. Như anh Độ, anh cũng nên thôi đi thì phải. Đấy, hồi ấy cứ ăn nói thoải mái như thế nên rất vui. Cánh đổi mới thường tụ họp với nhau, vừa nhậu vừa trao đổi những suy nghĩ của mình. Ngoài Bắc có Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Xuân Cang, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Ngô Thảo, Văn Tâm, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Quang Thân, Trần Quốc Vượng, Hồ Ngọc Đại..vv… Trong Nam thì có Thu Bồn, Nguyễn Duy, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Quang Sáng, Trần Hữu Tá, Lê Ngọc Trà, Phan Đắc Lập…vv… Hoàng Phủ Ngọc Tường mỗi lần vào Sài Gòn cũng nhập vào nhóm này. Trần Mạnh Hảo một thời gian đóng vai đổi mới, thỉnh thoảng cũng đưa vợ đến tụ tập ở chỗ Thu Bồn.

Ở Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi cũng hăng hái đứng ra tổ chức nhiều cuộc hội thảo rất vui về thời sự văn học, về đổi mới giảng dạy văn học, về cải cách chương trình và sách giáo khoa, thu hút được khá nhiều cây bút cấp tiến trong trường, ngoài trường như Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Nguyễn Trọng Oánh, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dư Thị Hoàn…

Nguyễn Khải hồi này được ông Trần Độ triệu ra Hà Nội để chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ IV. Anh cùng Nguyên Ngọc hoạt động rất hăng hái, hô hào văn nghệ sĩ nói thẳng nói thật.

Nhưng chẳng bao lâu, thế cờ bị lật ngược. Nguyên Ngọc mất chức Tổng biên tập báo Văn nghệ. Nguyễn Khải thấy động, lặn biến vào Nam. Tố Hữu nắm lại lá cờ Văn nghệ. Trần Độ mất chức (1989). Tố Hữu phê phán bản Đề cương văn hoá văn nghệ của Nguyên Ngọc ở hội nghị nhà văn đảng viên. Nguyễn Đình Thi trở lại cùng với cánh bảo thủ chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ IV.

Cánh đổi mới bị đánh dồn dập: Lê Ngọc Trà, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Văn Tâm, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh bị tước giải thưởng. Hội đồng chung khảo phải viết bài sám hối (riêng Nguyên Ngọc và Lê Ngọc Trà không chịu)

Bọn bảo thủ và cơ hội chủ nghĩa nổi lên, ngày càng làm mưa làm gió. Trong Nam có Chế Lan Viên, Bảo Định Giang, Anh Đức, Vũ Hạnh, Diệp Minh Tuyền, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Đạm, Hoàng Nhân, Phạm Tường Hạnh, Trần Trọng Đăng Đàn… Ngoài Bắc có Hà Xuân Trường, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Hoàng Trung Thông, Đông Hoài, Hồ Phương, Bùi Đình Thi, đám Văn nghệ quân đội, Thành Duy, Lưu Trọng Lư, Nông Quốc Chấn, Hoàng Xuân Nhị, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phương Lựu, Nguyễn Văn Lưu, Vũ Quần Phương, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Hữu Thỉnh, Hồng Diệu… Cánh này rất có thế lực vì đằng sau có Lê Đức Thọ, Nguyễn Đức Bình, Trần Trọng Tân… Nguyễn Văn Linh giờ lại xoay ra chửi Dương Thu Hương và Nguyễn Khắc Viện.

Vào cuối những năm 80, hai lực lượng cấp tiến và bảo thủ, cơ hội, từ chỗ tương đương về thế và lực, chuyển dần đến chỗ cánh bảo thủ hầu như làm chủ trận địa. Lãnh đạo về sau dùng cả đến bọn lưu manh, đầu gấu trong văn nghệ như Nguyễn Văn Lưu, Trần Mạnh Hảo…

Vì những lẽ đó, từ cuối những năm 80, đặc biệt là từ đầu những năm 90, tình hình văn học xuống cấp ngày càng nghiêm trọng, nhất là về lý luận, phê bình.

Kết thúc thập kỷ 80, có một sự kiện văn học rất vui không thể không nói đến: Đại hội nhà văn lần thứ IV. Tôi nhớ, trên giường bệnh, Nguyễn Minh Châu có nói thế này, giá Đại hội làm luôn từ 1986, 1987, thì bọn bảo thủ chỉ có quỳ lậy. Chuẩn bị đại hội kéo dài quá, giờ thì bọn bảo thủ lại nổi lên rồi… Tuy vậy Đại hội nhà văn lần thứ IV tổ chức vào năm 1989 cũng vẫn rất vui, rất sôi nổi.

Đây là đại hội đầu tiên và duy nhất tính cho đến ngày hôm nay, được triệu tập toàn thể hội viên. Đại hội thể hiện một sự phân hoá rất quyết liệt. Từ chuyện to đến chuyện nhỏ, rất nhỏ, thậm chí lặt vặt nữa, đều nổ ra xung đột, không thể hoà giải với nhau được. Chuyện to như vụ bãi chức Tổng biên tập báo Văn nghệ của Nguyên Ngọc, chuyện đánh giá tình hình văn học những năm 1987,1988 là khởi sắc hay tiêu cực do buông lỏng lãnh đạo, vụ Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu mắc nạn ở Đà lạt, vụ Nguyễn Văn Hạnh đọc thư Trần Độ, việc bầu Tổng thư ký Hội nhà văn trực tiếp hay gián tiếp…, chuyện nhỏ thì như việc bầu chủ tịch, thư ký đoàn và ban kiểm phiếu, chuyện kiểm phiếu, đếm phiếu sao cho tránh được gian lận…

Sự phân hoá diễn ra cả trong giờ nghỉ. Ngồi uống cà phê hay bia bọt với nhau ở căng tin cũng phe nào ngồi riêng với phe ấy. Ai ngồi nhầm chỗ lập tức bỏ đi ngay.

Hội nghị kéo dài tới 11 ngày, thỉnh thoảng lại dừng lại để họp riêng đảng viên. Nhưng họp đảng viên cũng thế thôi. Những đại biểu thuộc phái cơ hội chủ nghĩa lên diễn đàn thường bị la hét hay vỗ tay đuổi xuống như Mai Ngữ, Anh Đức, Hoàng Xuân Nhị… Trần Bạch Đằng trong chủ tịch đoàn bị Dương Thu Hương đuổi vì không phải phiên mình điều khiển cũng khệnh khạng ra giải thích theo phái bảo thủ – theo Nguyễn Trọng Tín, đây là trường hợp không thể có đối với ông “vua không ngai” này ở Miền Nam.

Cuộc xung đột có khi còn diễn ra ở hậu trường Đại hội bằng những lời đe doạ dùng đến cả bạo lực. (Có đại biểu đề nghị chủ tịch đoàn bảo vệ mình vì có kẻ đe doạ hành hung). Một số đại biểu thuộc cánh bảo thủ quá hoảng hốt, buổi tối chạy đến kể lể khóc lóc, cầu cứu Lê Đức Thọ (Bác Sáu à, bác Sáu ơi, Nhà ta phá tan rồi còn đâu.” Nguyễn Duy).

Sự phân hoá hai phe nói trên trong Đại hội đã được Nguyễn Duy mô tả rất vui trong một bài vè gọi là Đại hội nhìn từ gần (nhại lại tên bài thơ Tổ quốc nhìn t xa của anh). Dưới đây, trích vài đoạn:

Thủa trời đất nổi cơn Đại hội,
Khách làng văn nhiều nỗi truân chuyên;
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai xuyên tạc cho nên nỗi này.
Trống Hà Thành lung lay bóng nguyệt,
Sương Ba Đình mù mịt thức mây;
Mấy lần nghị quyết trao tay,
Đêm đêm bàn bạc định ngày khai trương…
(…) Ngôn luận chiến ào ào sấm nổ
Tưởng cơ đồ sụp đổ đến nơi
Bác Sáu à, bác Sáu ơi
Nhà ta nó phá tan rồi còn đâu
Trang giấy trắng một màu quan ải,
Oan khiên này biết giãi cùng ai;
Giận hờn mấy kẻ đơn sai
Văn đàn bỗng hoá võ đài phải chăng?
(…) Nguyễn Khải lặn mất tăm đâu đó
Chính Hữu chờ sóng gió qua mau
Bùi Bình Thi rút ván cầu
Phạm Tiến Duật ẩn mình đâu mất rồi
Chàng Hữu Thỉnh dở cười dở khóc
Ngọc Tú nàng rứt tóc vò tai
Đỗ Chu tế ngựa vòng ngoài
Gặp ai cũng hỏi rằng ai nhớ mình
(…) Nguyễn Văn Hạnh một mình một ngựa
Phá vòng vây ở giữa sa trường
Không lùi bước chẳng tạt ngang
Đã vì đồng đội gian nan xá gì
Biết cứu nạn lắm khi mắc nạn
Tâm huyết nhiều mất mạng như chơi
(…) Đại hội bỗng chia làm hai phái,
Phái vui tươi và phái hầm hầm;
Chúng ta cùng bạn làng văn,
Cớ sao mặt cứ gằm gằm khó coi…
(…) Mai ngữ sử dao găm súng lục,
Mắt Liên Nam đục đục điên điên,
Thu Bồn nộ khí xung thiên,
Bỗng đâu một trận Mai Liên ào ào.
Thu Hương nổ pháo tầm cao,
Tường Hạnh hụt một đường đao bất ngờ,
Trần Độ vắng mặt bao giờ,
Phất phơ để lại một tờ tâm thư.
Nguyễn Văn Hạnh dịch ngôn từ,
Đoàn chủ tịch cũng ậm ừ cho qua…
(…) Anh Đức mặt vênh vênh véo véo
Mắt đăm đăm liếc xéo hội trường…
(…) Thuỳ Mai nước mắt lưng tròng
Cõng Bùi Minh Quốc khỏi vòng hiểm nguy…
(…) Buổi bế mạc chấp hành ra mắt,
Chín người đà đứng sắp hàng ra,
Tổng thư ký của hội ta:
Tướng công họ Vũ tên là văn Ngan…

Đại hội nhà văn lần thứ IV có thể coi là ngày hội lớn, cuộc vui lớn cuối cùng của phe cấp tiến. Đại hội càng về cuối chầu, càng nhạt. Với sự sắp đặt, điều khiển hội nghị một cách khôn khéo mềm dẻo, vừa đánh vào chỗ yếu của phe cấp tiến (không có tổ chức chặt chẽ, thiếu cương lĩnh đàng hoàng, không có mưu mẹo gì cả, mải vui chơi, chủ quan mất cảnh giác…), vừa dựa vào quyền thế của lãnh đạo chóp bu, kết thúc Đại hội, phe bảo thủ về cơ bản đã giành được thắng lợi.

Nguyễn Khải cho là do sự chèo chống rất khôn khéo của Nguyễn Đình Thi. Anh nói với tôi khi kết thúc Đại hội: “ở nước này chỉ có hai người biết làm chính trị là Lê Đức Thọ và Nguyễn Đình Thi.

***

Hãy trở lại với những trận đánh đấm, qui chụp ngày càng bừa bãi và trắng trợn của phe cơ hội bảo thủ đối với phái cấp tiến, từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước. ở đây – vì là hồi ký của tôi – nên tôi chủ yếu chỉ nói về những trường hợp liên quan đến tôi mà thôi.

Tôi là một trong số những người bị đánh đấm qui chụp nhiều nhất. Mà không phải chỉ bị đánh từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) với tội danh “đổi mới cực đoan”, “phủ nhận văn học cách mạng, phủ nhận quá khứ”, “đối lập tưởng chính trị với tưởng nghệ thuật”, “khinh bạc hơn cả Nguyễn Tuân”, “hạ thấp thơ Hồ Chí Minh loại Tuyên ngôn độc lập ra khỏi sách giáo khoa”…

Bài viết đầu tiên của tôi bị phê phán là bài Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút chống Mỹ (Tạp chí Văn học số 8 – 1968)

Như đã nói, bài này ông Hoài Thanh rất thích. Nhưng ông đã bị Trường Chinh triệu lên để phê bình vì bài viết quá đề cao Nguyễn Tuân. Là một nhà lãnh đạo rất cẩn trọng, Trường Chinh dặn Hoài Thanh không nói lại với tôi vì sợ “anh ấy hoang mang”.

Nhưng Hoài Thanh vẫn nói lại với tôi. Hôm ấy gặp ông ở một cuộc họp ở Viện khoa học giáo dục, sau khi thuật lại ý kiến Trường Chinh, ông nói: “Theo tôi một bài phê bình không nhất thiết phải nói toàn diện. Nhưng anh đã gặp rủi: bài của anh ra đời cùng một lúc với bài Tình rừng của Nguyễn Tuân đăng trên Văn nghệ.

Bài Nguyễn Tuân của tôi liên quan đến bài Vũ Trọng Phụng (“Mâu thuẫn bản trong thế giới quan trong sáng tác của Trọng Phụng”) viết cùng năm ấy (1968).

Tôi đưa bài này cho ông Hoài Thanh, lúc đó ông sống với bà Bền ở Trần Quốc Toản. Hoài Thanh đồng ý đăng. Nhưng liền sau đó ông bị điều sang phụ trách báo Văn nghệ. Vũ Đức Phúc thay ông phụ trách thư ký toà soạn Tạp chí văn học. Anh Phúc sai Phong Lê gọi tôi đến gặp anh ở Viện Văn học. Anh nói: “Bài Nguyễn Tuân của anh có thể làm mất huân chương của tạp chí chúng tôi đấy”. Anh từ chối không đăng tiếp bài Vũ Trọng Phụng nữa. Tôi đã tranh luận với anh một chập. Tôi nhớ anh Phúc nói rất quyết liệt, xùi cả bọt mép. Và cứ chuyện nọ sọ chuyện kia. Nghĩa là không thể tranh luận với anh được. Chẳng hạn tôi nói, anh Như Phong cho biết Vũ Trọng Phụng rất thích thơ Tố Hữu (đăng báo công khai thời Mặt trận dân chủ Đông Dương). Vũ Đức Phúc nói: “Như Phong lúc đó chưa phải đảng viên”. Đúng là lý lẽ chẳng đâu vào đâu cả.

Trong khi tôi và anh Phúc tranh luận thì Phong Lê quanh quẩn rót nước mời khách. Tôi hỏi: “Anh Phong Lê, ý kiến anh thế nào?” Phong Lê vội lảng: “Chuyện này tôi không rõ, tuỳ các anh”.

Nhân đây, xin nói một chút về Vũ Đức Phúc.

Vũ Đức Phúc có lẽ là một sản phẩm đặc biệt của một thời – cái thời mà quan điểm giai cấp được vận dụng một cách rất thô thiển. Tôi vẫn tin Vũ Đức Phúc là người chân thật và thẳng thắn, nhưng chân thật, thẳng thắn một cách rất máy móc, cứng nhắc và thô bạo. Chẳng thế mà Xuân Diệu gọi anh là cái “xe tăng mù”. Có lần nhà thơ nói với tôi: “Vũ Đức Phúc cứ ném ra những ý kiến rất thô như quăng ra những thanh củi vậy.”

Hôm ấy tranh luận với Vũ Đức Phúc tôi mới thấy nhận xét của Xuân Diệu không ngoa ngoắt chút nào. Đại khái anh nói về Thiếu quê hương của Nguyễn Tuân thế này: “Sao lại kêu “thiếu quê hương”! Lại còn đòi đi Mỹ theo đám múa Xuân Phả và định cho em đi lính thợ sang Tây. Yêu nước gì Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân là absence d‘humanisme. Ghét gia đình. Đối với những đàn bà hiền dịu lại ghét. Không thương vợ con. Chơi bời như thế nhất định làm khổ vợ con. Nói Nguyễn Tuân kênh kiệu chưa đủ. Phải nói là không nhân đạo, không yêu nước gì cả. Còn vì sao ông ấy đi theo Cách mạng thì là vấn đề phải suy xét. Vang bóng một thời tả Huế, mỹ hoá bọn bịp bợm trên Sông Hương. Bọn ấy là lũ bóc lột, lừa đảo, truỵ lạc, không đẹp, không tao nhã như Nguyễn Tuân viết đâu.”

Còn đây là ý kiến của anh về Vũ Trọng Phụng: “ Nội báo là tờ báo chống Hải Triều. Vậy mà Vũ Trọng Phụng đã viết ở đó. Vũ Trọng Phụng là loại dân nghèo lưu manh hoá vùng ngoại ô (làng Mọc). Vũ Trọng Phụng ca tụng Quỳnh, Vĩnh như là trí thức hạng nhất.”

Anh cho tôi đánh giá quá cao Giông tố, S đỏ, V đê.

Anh cũng không tán thành ý kiến của tôi nêu ra mâu thuẫn cơ bản trong thế giới quan Vũ Trọng Phụng gồm hai nhân tố: tư tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa và tâm trạng phẫn uất đối với xã hội. Anh nói: “Hai mặt mâu thuẫn đều tiêu cực cả thì không biện chứng. Nhưng triết lý không quan trọng bằng tư tưởng chính trị. Vũ Trọng Phụng là chống cộng, là phản động. Còn Chủ nghĩa duy vật của Vũ là duy vật hưởng lạc, là Freud”.

Đấy Vũ Đức Phúc là như thế đấy!

Tất nhiên anh từ chối không đăng bài Vũ Trọng Phụng của tôi, tuy ông Hoài Thanh đã duyệt và cho in.

Nhưng đến năm 1971, nhân gặp nhau ở trụ sở báo Văn nghệ, nghe Nguyễn Đình Thi nói về Vỡ bờ, không hiểu sao anh lại bảo tôi đưa bài Vũ Trọng Phụng cho anh.

Nhưng anh nói: “Tôi đăng bài này với điều kiện, sau đó có bài uốn nắn lại, anh có đồng ý không?” Tôi đồng ý. Năm 1971, bài tôi đăng số trước thì số sau có bài uốn nắn lại của Nguyễn Đức Đàn.

Năm 1980, tôi được giao làm Tuyền tập Nguyễn Tuân. Hồi ấy có quan niệm làm tuyển tập là một cái gì ghê gớm lắm: Chỉ được phép làm tuyển tập Hồ Chí Minh hay các lãnh tụ cao cấp của Đảng, chí ít phải là Tố Hữu. Còn các nhà văn dù lớn đến đâu cũng chỉ được làm sau khi chết. Mà phải là nhà văn không có “vấn đề” gì, như Ngô Tất Tố, Nam Cao… Nhưng ông Lý Hải Châu giám đốc nhà xuất bản Văn học quyết định làm tuyển tập các nhà văn còn sống, thuộc tầm cỡ lớn, trước hết là Nguyễn Tuân. Lý Hải Châu từng là một nhà tình báo cách mạng hoạt động ở Sài Gòn, đã từng bị bắt và kết án tử hình, nhưng may trốn thoát được ra Bắc nhờ hiệp định Genève. Ông là một trí thức, rất đạo đức và có bản lĩnh. Ông cứ quyết định làm Tuyển tập Nguyễn Tuân đầu tiên, mặc cho Hoài Thanh và Hoàng Trung Thông can ngăn.

Tôi thì mừng quá, vì nghiên cứu Nguyễn Tuân mãi, giờ mới được dùng đến. Ngoài việc tuyển lựa tác phẩm Nguyễn Tuân, tôi lo viết bài giới thiệu sao cho thật tốt. Nguyễn Tuân chọn tôi chứ không chọn Vũ ngọc Phan, vậy tôi phải viết sao cho xứng đáng với sự tín nhiệm của ông. Mà người đọc bài Tựa trước hết là chính Nguyễn Tuân. Viết cho Nguyễn Tuân đọc đâu có dễ. Tôi dự kiến viết bài gồm ba phần:

I. Quan điểm sáng tác
II. Quá trình sáng tác
III. Phong cách nghệ thuật

Viết phần đầu cứ tắc lại mãi. Tôi đến Xuân Diệu than phiền với anh. Xuân Diệu nói: “Viết tắc giống như bị táo bón. Nhưng táo bón còn hơn tháo dạ. Viết văn cũng vậy”. Và anh truyền kinh nghiệm cho tôi: “ Chỗ nào tắc, cứ bỏ đấy viết sang phần khác rồi quay lại sau, sẽ viết được. Vẽ cũng thế. Vẽ người đâu cứ phải vẽ từ đầu xuống. Vẽ từ đít lên cũng được chứ. Đánh đồn cũng vậy, có thể đánh tung thâm thẳng vào hầm Đờ Cát chứ không cứ phải đánh lần lượt từ ngoài vào”.

Tôi nghe Xuân Diệu, viết nhảy cóc sang phần hai, phần ba, sau đó mới quay lại phần một và thấy quả là trôi chảy thông thuận.

Tuyển tập làm xong, nhiều người khen. Lý Hải Châu, Nguyễn Tuân, Lê Khánh (biên tập viên) đều vừa lòng. Anh Nguyễn Văn Bổng hồi đó làm tổng biên tập báo Văn nghệ, tổ chức một cuộc hội thảo về Tuyển tập Nguyễn Tuân ở trụ sở báo (17 Trần Quốc Toản). Hôm ấy có mặt Nguyễn Tuân, Lý Hải Châu, Xuân Diệu, Tế Hanh, Phạm Hổ, Từ Sơn, Ngọc Trai, Lê Khánh và tôi.

Tuyển tập in ra được Trương Chính, Quang Huy viết bài khen, nhưng bị Phan Cự Đệ phê phán, cho là quá đề cao Nguyễn Tuân trước Cách mạng mà chưa chú ý đúng mức đến tác phẩm của nhà văn sau Cách mạng.

Anh Lý Hải Châu rất tín nhiệm tôi. Tập tiểu luận phê bình văn học đầu tiên của tôi do nhà xuất bản Tác phẩm mới in năm 1979 (Nhà văn, tưởng phong cách), anh cho tái bản ngay năm 1983, bổ sung vào đấy bài giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân.

Tập sách này được nhận giải thưởng về lý luận phê bình của hội nhà văn năm 1985 (giải thưởng văn học 4 năm: 1941 – 1944). Hôm họp hội đồng lý luận phê bình để xét giải thưởng, tôi vẫn bị anh Phan Cự Đệ phê phán và bác bỏ. Chị Ngọc Trai, thư ký hội đồng thuật lại với tôi như thế. Hội đồng có 6 người: Hà Xuân Trường, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Đức Nam, Lê Đình Kỵ, Hoàng Trung Thông. Lê Đình Kỵ ở trong Nam không ra. Hoàng Trung Thông thì ốm đang nằm bệnh viện. Phan Cự Đệ tự đi phát và thu phiếu điều tra dư luận. Kết quả Đệ, Đức nhiều phiếu tán thành hơn cả, thứ hai là Hà Xuân Trường. Ngọc Trai cũng phát phiếu điều tra về mấy cuốn sách của Đức, Đệ, Hà Xuân Trường, nhưng chị cho biết, họ cho rằng chỉ hỏi về mấy cuốn sách ấy thì họ không trả lời.

Ngọc Trai đề nghị đưa vào giải thưởng mấy cuốn của Nguyễn Đăng Mạnh, Nhị Ca và Thành Duy. Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức bác đi. Đệ rất quyết liệt, cho sách của tôi là sách tái bản không hợp lệ. Hà Xuân Trương chủ tịch hội đồng tán thành đề nghị của Ngọc Trai thêm hai cuốn của Nguyễn Đăng Mạnh và Nhị Ca, còn cuốn của mình thì xin rút. Mọi người nhất trí, bỏ phiếu 100%. Phan Cự Đệ lại hội ý với Hà Minh Đức đề nghị sách của Nguyễn Đăng Mạnh xếp xuống loại B vì lý do, nếu anh Hoàng Trung Thông có mặt, chắc không tán thành, vì anh từng nói với Đệ bài Nguyễn Tuân có vấn đề. Chính Hữu phó tổng thư ký Hội nhà văn có mặt hôm ấy gạt đi. Ngọc Trai mang phiếu đến bệnh viện lấy ý kiến của Hoàng Trung Thông. Thông cũng tán thành và nói không hề có ý kiến gì về bài Nguyễn Tuân trong Tuyển tập cả. Chỉ nói bài viết từ xưa của anh Mạnh từng bị Vũ Đức Phúc phê phán… Nhưng chuyện qua lâu rồi…

Thế mà sau hội nghị, Phan Cự Đệ lại là người viết thư riêng cho tôi báo tin mừng tôi đã được giải thưởng.

Vào năm 1983, tôi còn bị đánh một trận nữa. người ta đánh một bài viết của tôi chưa hề được công bố.

Hồi ấy cuộc xung đột ta với Tầu ở biên giới còn nóng hổi. Anh Nguyên Ngọc vừa ở chiến trường ra, được đề bạt làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, chủ trương làm một cuộc cách mạng trong đời sống văn học, đặc biệt là chống Maoít. Hôm ấy nhân có một cuộc họp của giới lý luận phê bình văn học ở trụ sở báo Văn nghệ, Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải đến hô hào chúng tôi dũng cảm nói sự thật, đảm bảo không sợ bị “tai nạn lao động”.

Một số người phát biểu hưởng ứng, trong đó có Hoàng Ngọc Hiến và tôi. Thấy ý kiến nghe được, anh Từ Sơn ở báo Văn nghệ đề nghị viết thành bài để đăng báo.

Bài của Hiến chính là bài “hiện thực phải đạo” nổi tiếng, được coi như mở đầu cuộc đổi mới văn học. Bài đăng được ít lâu thì bị phê phán quyết liệt cùng với bản Đề cương của Nguyên Ngọc. Vì thế bài của tôi đã lên khuôn vội rút về. Nhưng nhiều người cứ đồn bài này còn táo tợn hơn cả bài của Hiến, và lời đồn đại này cứ lan rộng mãi. Hoàng Trung Thông lúc bấy giờ là Viện trưởng viện văn học phát biểu trong một cuộc hội nghị ở Viện, nói tôi đã đối lập tư tưởng chính trị với tư tưởng Văn nghệ.

Chuyện này tôi chẳng quan tâm làm gì nếu không liên quan đến kỳ phong học hàm phó giáo sư của tôi lúc bấy giờ. Hồi ấy, người đăng ký phong học hàm, trước khi được đưa ra bầu bán về chuyên môn, phải thông qua đảng uỷ của cơ quan công tác về tư tưởng. Trường hợp của tôi trở thành gay go vì tiếng đồn về bài viết của tôi đã vang đến đảng uỷ trường đại học Sư phạm và đảng bộ khoa văn. Hoàng Dung, tổ trưởng chuyên môn và bí thư liên chi đảng, tỏ ra có trách nhiệm, cho người đi dò hỏi một số nhân vật công tác ở các cơ quan văn hoá của Đảng như ban văn hoá văn nghệ Trung ương, Viện văn học, báo Văn nghệ… Anh còn cho người đến trụ sở Văn nghệ đề nghị cho đọc biên bản cuộc họp về lý luận phê bình để xem tôi đã phát biểu như thế nào…

Thấy tình hình có vẻ nguy, tôi bèn lấy bản thảo bài viết của mình đưa cho anh Phạm Quý Tư đọc (lúc này anh Phạm Quý Tư là hàng xóm của tôi, cùng ở tầng năm, nhà B2, khu tập thể cán bộ giảng dạy Đại học Sư phạm Hà Nội). Anh Tư là hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chủ tịch Hội đồng khoa học trường, đồng thời là đảng uỷ viên. Anh Tư cẩn thận, đưa cho chị Trần Thị Thục Nga, bí thư đảng uỷ trường đọc nữa. Rất may là các vị kết luận: không có vấn đề quan điểm gì cả. Anh Tư còn khen bài viết hay. Anh hỏi tôi có yêu cầu gì không. Tôi nói, nếu chuyện đồn đại diễn ra ở đâu đó thì cứ mặc kệ không quan tâm làm gì. Nhưng nếu vấn đề được đưa ra bàn ở đảng uỷ, thì anh là người đã đọc, anh cứ phát biểu như anh vừa nói với tôi.

Chuyện phong của tôi vì thế trở thành xuôn xẻ.

Sau này biết chuyện, nhiều người đề nghị cho đọc bài ấy, nhưng tôi từ chối. Việc đọc văn, hiểu văn lắm chuyện lắm. Nếu có động cơ xấu thì càng rách việc.

Năm 1984, tôi được phong phó giáo sư.

***

Sau Đại hội Đảng lần thứ Sáu (1986), đất nước bắt đầu đổi mới, người đánh tôi đầu tiên vẫn là Phan Cự Đệ. Nguyên là tôi có viết một bài nhan đề là “Phê bình văn học trong tình hình mới” đăng trên Văn nghệ năm 1987. Phan Cự Đệ liền viết trên Văn nghệ quân đội một bài phê phán tôi “phủ nhận văn học Cách mạng”, “phủ nhận quá khứ”. Giọng điệu có vẻ ôn tồn nhưng qui kết rất nặng.Tôi bực lắm, vì từ lâu vốn đã không ưa Phan Cự Đệ từ con người đến cách viết.

Hồi ấy, như đã nói, Nguyễn Khải được anh Trần Độ gọi ra để chuẩn bị đại hội nhà văn lần thứ IV. Sau bài anh Đệ phê phán tôi ít lâu, Nguyễn Khải có tổ chức một cuộc họp lý luận phê bình văn học ở 65 Nguyễn Du. Tôi nhớ hôm ấy có mặt rất đông: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Đức Nam, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Văn Hạnh, Thiếu Mai, Phong Lê, Ngọc Trai, Lê Thị Đức Hạnh..vv… Nguyễn Khải điều khiển cuộc họp. Tôi ngồi gần Đệ. Tôi nói với Nguyễn Khải: “Anh Khải này, anh là người lắm chữ, tôi thì ít chữ, tôi không biết gọi anh Đệ thế nào. xin anh tìm cho tôi một chữ nào đấy, còn tôi thì chỉ biết gọi anh Đệ là thằng đểu”.

Không khí cuộc họp trở nên căng thẳng. Hoàng Trung Thông và Nguyễn Văn Hạnh ngồi cùng một cái ghế tựa dài với tôi. Nguyễn Văn Hạnh ngồi giữa. Hoàng Trung Thông chồm người qua Nguyễn Văn Hạnh nói với tôi: “Anh Mạnh này, tôi không bao giờ đọc anh Đệ đâu nhé.” Tôi nghĩ bụng, chính anh đã đề tựa cho cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại của Đệ, sao lại nói là không đọc?

Đệ ngồi im không nói gì. chờ cho vài người phát biểu xong, anh mới nói, đại ý khoe có một bài viết gì đó đã được dịch đăng trên một tạp chí của Liên Xô (lúc này Liên Xô chưa sụp đổ)

Tôi lại bồi thêm một đòn nữa: “Không biết Liên Xô đánh giá anh thế nào, chứ tôi đánh giá anh rất kém, viết chẳng hay ho gì đâu”.

Lúc ấy chắc bộ dạng tôi dữ dội lắm. Cuộc họp kết thúc, Hà Minh Đức nói với tôi: “Ông Đệ ông ấy thần kinh vững lắm. Chứ tôi bị anh nói thế, tôi không chịu được. Tôi đau tim mà!”

Tôi để ý, khi diễn ra cuộc xung đột giữa tôi với Phan Cự Đệ, không có ai bênh Đệ cả, tuy lúc ấy có đủ mặt giới lý luận phê bình và một số anh sáng tác, cấp tiến có, bảo thủ có. Hiện tượng này chứng tỏ hồi ấy (1987), cánh đổi mới đang ở thế áp đảo.

Tôi thấy Hà Minh Đức nói rất đúng, Đệ quả là một tay thần kinh vững. Hôm ấy, cuộc họp tan, anh vẫn bắt tay tôi, coi như không có chuyện gì xảy ra.

Nhưng đừng tưởng anh đã chịu thua tôi đâu. Đầu năm 1989, anh lại đăng trên Nhân dân một bài tiếp tục phê phán ý kiến của tôi trong bài viết năm 1987, đồng thời còn móc lại những ý kiến của tôi phát biểu trước Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh để lên án. Và đến năm 2000 thì nổ ra vụ luận án tiến sĩ của Trần Hạnh Mai. Anh đã tấn công tôi quyết liệt. Số là luận án của Mai, cán bộ giảng dạy khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội, do tôi hướng dẫn, sau khi bảo vệ ở Hội đồng cơ sở (1998) được Bộ đưa cho anh Đệ phản biện kín. Luận án viết về “Sự nghiệp phê bình văn học của Hoài Thanh”. Tôi và Mai chủ trương phản bác ý kiến cho rằng, trước Cách mạng Tháng Tám, Hoài Thanh hoàn toàn viết theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Đệ cho như thế là sai lầm căn bản. Anh viết hẳn trong bản nhận xét phản biện “Trần Hạnh Mai đã theo quan điểm đổi mới cực đoan của Nguyên Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh.” Và anh gọi Mai đến đề nghị chữa luận án theo ý anh, lại nói để yên lòng cô nghiên cứu sinh: người hướng dẫn không có trong hội đồng bảo vệ nên không sợ.

Trần Hạnh Mai không nghe. Cô nghĩ bụng, không bảo vệ thì thôi chứ không thể phản lại thầy và chân lý. Thế là Đệ báo cáo lên ban tư tưởng văn hóa trung ương, coi như một vấn đề thuộc quan điểm chính trị cần có ý kiến của cơ quan Đảng. Rất may là về sau, Ban Tư tưởng văn hóa lại gửi luận án của Mai cho Viện Văn học hỏi ý kiến. Viện ủng hộ Mai và cuộc bảo vệ cấp Nhà nước được tiến hành suôn sẻ (năm 2000). Luận án được đánh giá xuất sắc.

Buổi bảo vệ kết thúc, tôi phát biểu với tư cách người hướng dẫn. Tôi nói: “Thông thường khi bảo vệ thành công luận án, nghiên cứu sinh cám ơn người hướng dẫn. Nhưng hôm nay tôi làm ngược lại, tôi xin cám ơn Hạnh Mai đã giữ vững lập trường của mình. Tôi cũng xin cám ơn giáo sư Phan Cự Đệ. Nhờ có anh mà tôi mới biết được, một cô gái có vẻ yếu đuối như Trần Hạnh Mai mà té ra lại có bản lĩnh vững vàng như thế.”

Cuộc bảo vệ tuy thế, do Phan Cự Đệ, đã bị trì hoãn lại đến hơn tám tháng.

Sau cuộc bảo vệ này, một lần nữa tôi lại thấy Đệ đúng là thần kinh rất vững. Anh gặp tôi luôn, thường do cùng ở chung trong một hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ nào đấy. Anh vẫn bắt tay tôi và trò chuyện rất thân mật.

Năm 1995 tôi còn bị một đòn phê phán nữa khá quyết liệt. Đòn của Trần Thanh Đạm. Điều này tôi đã kể ở trên rồi, ở đây chỉ nói thêm về nội dung của vấn đề mà thôi.

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của Tạp chí Văn học do Phạm Xuân Nguyên thực hiện, tôi cho rằng từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, văn học Việt Nam có ba cuộc nhận đường. Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng và trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Lần thứ hai, sau Điện Biên Phủ, hoà bình được lập lại trên miền Bắc. Lần thứ ba, sau 1975. hai lần trước, tôi cho là không khó khăn lắm, vì chỉ là nhận thức nhiệm vụ chính trị của Văn nghệ sĩ, mà chính trị lúc bấy giờ thực chất chỉ là yêu nước, chống xâm lược rất dễ thông suốt. Văn nghệ sĩ vốn rất yêu nước, nên dễ dàng giác ngộ về điều này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả, từ tài sản, tính mạng đến cả bản thân nghệ thuật cho cuộc kháng chiến.

Nhưng cuộc nhận đường thứ ba này thì rất phức tạp vì đây mới là cuộc nhận đường của bản thân văn học nghệ thuật với hàng loạt câu hỏi: Văn nghệ là gì? Chức năng của văn nghệ? Tiêu chí giá trị tác phẩm văn nghệ? Văn nghệ và chính trị? Văn nghệ và hiện thực?..vv… Những câu hỏi không dễ trả lời.

Viết bài trên Sài Gòn giải phóng, Trần Thanh Đạm cho tôi là không hiểu gì cả, lại dám khinh bạc Cách mạng. Con đường cứu nước đầy gian khổ, bao nhiêu văn nghệ sĩ đã hy sinh, một số đã phải bỏ cuộc, vậy mà lại nói là đơn giản, dễ dàng.

Không biết vô tình hay cố ý, anh đã đánh tráo khái niệm. Tôi nói nhận đường, tức nhận ra con đường cứu quốc không khó, chứ có nói con đường ấy là dễ dàng đâu, là không phải hy sinh xương máu, không phải trường kỳ gian khổ đâu. Giặc đến nhà, phải đánh đuổi nó đi, anh cho là điều khó hiểu lắm hay sao?

Nhưng thôi, bắt bẻ anh làm gì. Bài viết của anh đầy mâu thuẫn logích. Nhưng điều khó hiểu hơn nhiều là bản chất con người anh là thế nào nhỉ? Nguyễn Khải có lần hỏi tôi như thế, tôi cũng chịu.

Từ cuối những năm 80 cho đến nay, tôi còn bị nhiều người phê phán: Phan Trọng Luận, Nguyễn Văn Lưu, Đỗ Minh Tuấn, Lê Tuấn Anh, Hồ Phương, Trần Mạnh Hảo. Tôi không kể hết ra đây làm gì, chỉ xin nêu một số trường hợp có ấn tượng khó quên hơn cả.

Trước hết là Phan Trọng Luận với vụ Tuyên ngôn độc lập.

Năm 1989, tôi được giao chủ biên biên soạn lại chương trình và Sách giáo khoa PTTH môn văn (gọi là chương trình và SGK cải cách giáo dục).

Phương châm cải cách của tôi là: Chương trình văn phải đích thực là chương trình văn. Lúc ấy tôi quan niệm Văn theo nghĩa chặt chẽ và hiện đại: Văn là văn hình tượng, văn nghệ thuật, văn mỹ thuật (belles lettres), tác động đến người đọc trước hết về tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ thông qua hình tượng nghệ thuật. Vì thế khi xây dựng chương trình về văn thơ Hồ Chí Minh, tôi chỉ chọn vào phần giảng văn những tác phẩm văn thơ hình tượng hay văn thơ nghệ thuật mà thôi. (Vi hành, Mộ, Tảo giải, Vãn cảnh, Tân xuất ngục học đăng sơn, Nguyên Tiêu, Báo Tiệp, Cảnh khuya...). Tuyên ngôn độc lập không thuộc loại văn nghệ thuật, tôi chuyển sang chương trình tập làm văn, về thể nghị luận chính trị (chứ không hề bỏ ra ngoài chương trình).

Vì chương trình cũ có giảng văn Tuyên ngôn độc lập, nên thấy sách giáo khoa mới không có, nhiều người tưởng tôi loại ra khỏi chương trình và có phản ứng khá ồn ào.

Thực ra chương trình cải cách giáo dục đã loại bỏ nhiều tác phẩm trong chương trình cũ như Sống như Anh của Trần Đình Vân, Buổi Sáng của Nguyễn Thị Ngọc Tú và đưa vào nhiều tác phẩm từng bị phê phán trước kia, như Tờ Hoa của Nguyễn Tuân, Tây Tiến của Quang Dũng và nhiều bài Thơ mới lãng mạn.

Nhưng Tuyên ngôn độc lập là của Hồ Chí Minh. Đụng đến Hồ Chí Minh là chạm đến chỗ nhạy cảm nhất của người Việt Nam, nên lập tức ầm ĩ như đổ trời. Mai Thúc Lân đưa vào Quốc Hội. Hà Xuân Trường suy diễn: họ đưa ra ngoài chương trình học Tuyên ngôn độc lập chắc sẽ tiến tới loại bỏ cả Hịch tướng văn của Trần Quốc Tuấn và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Phạm Tường Hạnh thì la lối (Nhân dân 10 – 1995) “bỏ không học Tuyên ngôn độc lập thì còn nói gì giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ”. Không khí “báo động” này lại được bọn cơ hội chủ nghĩa trong giới làm báo kích động thêm lên làm cho càng trở nên căng thẳng.

Chuyện đến tai ông cố vấn Phạm Văn Đồng. Ông tuy đã già lăm rồi, mắt gần như loà, vậy mà vẫn muốn có ý kiến về mọi việc quốc gia đại sự và vẫn hăng hái biên soạn sách này sách khác. Ông cho gọi tôi lên để góp ý kiến với ông về vấn đề văn hoá mà ông đang chuẩn bị viết, nhân tiện hỏi tôi về chuyện Tuyên ngôn độc lập. Tôi nói như đã viết ở trên: không loại ra khỏi chương trình, chỉ xếp vào đúng chỗ của nó thuộc thể văn chính luận. ở trường học phải thế mới khoa học. Ông không có ý kiến gì, chỉ vung tay nói lớn: “Bài văn hay lắm! hay lắm!”

Còn anh Việt Phương có mặt hôm ấy thì nói: “ nhà trường phải khoa học. Anh Mạnh anh ấy nói đúng đấy.”

Nhưng Phan Trọng Luận thì viết bài phê phán gay gắt, quy kết tư tưởng nặng nề. Đánh hơi được khuynh hướng của lãnh đạo, Luận lập tức hưởng ứng ngay.

Công chúng nhiều người không hiểu gì cả nên có phản ứng. Phan Trọng Luận là thành viên của Hội đồng ngữ văn, không phát biểu trong hội đồng mà lại viết báo phê phán. Mà anh thừa biết đâu phải loại ra khỏi chương trình. Đây chỉ là sự chuyển chỗ của tác phẩm từ môn giảng văn nghệ thuật đến môn tập làm văn về thể nghị luận, chính luận mà thôi. Tôi cho như vậy là thiếu trung thực.

Trong một cuộc họp của Hội đồng ngữ văn, tôi đã nói thẳng như thế với Phan Trọng Luận. Luận nổi nóng cãi lại. Anh Hoàng Tuệ hồi đó là chủ tịch Hội đồng can không được, đành tuyên bố giải tán cuộc họp.

Thực ra Phan Trọng Luận vốn từ lâu đã không ưa tôi.

Năm 1988 tôi có viết một bài trên báo Văn nghệ “Vài suy nghĩ v đổi mới duy trong giảng dạy văn học”. Trong bài này tôi cho rằng, phương pháp giảng dạy tức môn giáo học pháp, không phải không cần, nhưng trong tình hình hiện nay, điều quan trọng hơn là phải hiểu được bài văn đã. Phải giải quyết nội dung thì mới có cái mà truyền đạt chứ. Lâu nay nội dung ý nghĩa của bài văn thường bị chính trị hoá, nhiều người coi tiêu chí cao nhất để đánh giá tác phẩm văn học là tiêu chí chính trị. Phân tích tác phẩm họ thường suy diễn bừa bãi theo lối xã hội học dung tục hay biến ngôn ngữ nghệ thuật thành ngôn ngữ chính trị trực tiếp, giá trị văn chương không được coi trọng. Nghĩa là có rất nhiều vấn đề cần giải quyết xung quanh việc phân tích, thẩm định tác phẩm như những giá trị văn chương.

Phan Trọng Luận bèn xui một giáo viên phổ thông thân cận với anh (Vũ Dương Quỹ) viết bài phê phán tôi không hiểu tầm quan trọng của giáo học pháp.

Thực tình thì tôi không coi thường bộ môn khoa học này nhưng quả có coi thường những người dạy môn học này. Không có kinh nghiệm dạy văn cụ thể nên toàn lý thuyết suông, phát biểu những nguyên lý chung chung vô bổ. Có lần tôi đã nói toạc ra như thế khi trả lời học viên một lớp gọi là cốt cán cấp II (lớp bồi dưỡng giáo viên cấp II giỏi lên trình độ đại học). Cô Bích Ba, trưởng lớp, trịnh trọng đứng lên hỏi tôi khi bài học kết thúc: “Thưa thầy, thầy dạy văn đã lâu năm, vậy kinh nghiệm của thầy làm thế nào để dạy văn cho tốt.” Tôi trả lời ngắn gọn: “Muốn dạy văn cho tốt, theo kinh nghiệm của tôi, không nên học giáo học pháp.”

Cách ăn nói giật gân như thế tất được truyền bá nhanh chóng và rộng rãi, và các vị giáo học pháp rất căm ghét, trong đó có Phan Trọng Luận là người tự phong là giáo sư đầu ngành về môn học này.

Nhưng người tập trung đánh tôi nhiều nhất là Trần Mạnh Hảo.

Muốn hiểu hiện tượng Trần Mạnh Hảo, cần thấy y không phải là kẻ đơn độc và xuất hiện ngẫu nhiên, mà tiêu biểu cho một xu hướng cơ hội chủ nghĩa trong đời sống văn học của đất nước do một lực lượng cầm quyền tạo ra, đặc biệt là từ khi có phong trào đổi mới.

Lực lượng này có nhu cầu dẹp phong trào đổi mới, đòi dân chủ thật sự mà họ gọi là cực đoan, quá khích. Họ dẹp báo Văn nghệ của Nguyên Ngọc, họ cách chức Trần Độ, họ xoá bỏ giải thưởng trao cho tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, cấm phim Nội trong mắt ai của Trần Văn Thuỷ, chèo Bài ca giữ nước của Tào Mạt, vở Em đẹp dần trong mắt ai của đoàn kịch Hà Nội…, Họ phê phán Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…, tập truyện Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, đánh Lê Ngọc Trà, Hoàng Ngọc Hiến, Văn Tâm, Nguyễn Đăng Mạnh…, xoá bỏ trường viết văn Nguyễn Du do Khái Vinh, Phạm Vĩnh Cư, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc phụ trách..vv…

Họ cần có những “thợ đánh” giỏi. Họ tìm được Phan Cự Đệ, Trần Thanh Đạm, Hoàng Nhân, Mai Quốc Liên, Hồng Diệu, Nguyễn Văn Lưu, Hồ Phương, Vũ Quần Phương, Hữu Thỉnh, Trương Vĩnh Tuấn..vv… Tuy thế vẫn chưa có ai đáp ứng được đầy đủ nhu cầu “đánh dẹp” của họ.

Phải nói nghề “đánh đấm” này xem ra khá hấp dẫn với loại người cơ hội chủ nghĩa, vì nếu khôn ngoan ra có thể tiến thân rất nhanh chóng…

Nhưng hành nghề này cũng không đơn giản. Phải có một số điều kiện chủ quan:

  • Hoàn toàn vứt bỏ lương tâm, cắt hết mọi “dây thần kinh xấu hổ”
  • Có biệt tài dối trá, xỏ xiên, bịa đặt, nguỵ biện.
  • Có khả năng diễn đạt giáo hoạt, hấp dẫn (tất nhiên đối với loại công chúng văn hoá thấp.)
  • Thất nghiệp, nhàn rỗi, được nuôi dưỡng đầy đủ để có thể ngày ngày tiêu thì giờ bằng cách sản xuất ra thật nhiều những “văn bản đánh đấm” cung cấp cho nhu cầu chống đổi mới, chống dân chủ.

Trần Mạnh Hảo xuất hiện đã đáp ứng tuyệt vời những điều kiện ấy.

Cho nên không phải ngẫu nhiên mà những Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Hữu Thọ, rồi Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh… đã vồ lấy anh ta như một của quý. Họ thừa biết đây là một tên đầu gấu, nổi tiếng phản bội (phản chúa, phản đảng, phản vợ, phản bạn, phản chủ, “phản thơ”, “phản phê bình”), từng bị khai trừ đảng vì viết Ly Thân, nhưng trước mắt có thể dùng làm tay sai đắc lực. Nguyễn Hữu Thọ đã nói thẳng như thế với anh em biên tập tạp chí Thế giới mới ở Sài Gòn (Nguyễn Khắc Hoan đã kể lại như thế với Nguyên Ngọc). Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy. Điềm vào Đại học Sư phạm Hà Nội nói chuyện với cán bộ, sinh viên khoa văn, ngang nhiên đánh giá Trần Mạnh Hảo là “trong sáng” và “dũng cảm”.

Cho nên bài của Hảo toàn đăng trên báo lớn: Nhân dân, Quân đội nhân dân, An ninh quốc gia, Văn nghệ… y được đám Văn nghệ quân đội ca tụng, được nhận rất nhiều giải thưởng của Hội Nhà văn, được đưa vào chương trình vô tuyến. Nhiều người viết bài tranh luận lại với Hảo bị báo chí từ chối. Nguyễn Hữu Sơn tập hợp một số bài viết tranh luận với Hảo, in ở Nxb Hải Phòng. Nhà xuất bản này đã bị phê bình, cảnh cáo.

Hảo viết bài đánh nhiều người, nhưng đánh tôi nhiều hơn cả.

Về chuyện tôi bị đánh dồn dập như thế, có người, như Hoàng Ngọc Hiến, giải thích là do sự chỉ đạo của Nguyễn Khoa Điềm. Anh nói: “Vì Nguyễn Khoa Điềm đã đích thân đến tận nhà mời cậu vào Hội đồng lý luận phê bình của Hội nhà văn mà cậu nhất quyết từ chối, nên hắn chỉ đạo Hảo đánh cậu chứ sao! Điềm lên làm tổng thư ký Hội nhà văn, lại là trung ương uỷ viên, đã hạ cố đến nhà riêng của hội viên mà lại bị từ chối, như thế là cậu coi thường anh ta, xúc phạm anh ta rồi còn gì!”

Sau Đại hội nhà văn lần thứ 5 (1995), đúng là Nguyễn Khoa Điềm và Ma Văn Kháng có đến tôi (ở ngõ 68, Quan Hoa). Điềm nói đại ý, tôi được giới lý luận phê bình và sáng tác tín nhiệm, vậy muốn mời tôi làm chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình. Lúc ấy tôi dứt khoát từ chối vì, một là thấy danh sách uỷ viên Hội đồng do Điềm dự kiến có những tay bảo thủ cơ hội chủ nghĩa tôi rất ghét, hai là có nhiều người thuộc phái cấp tiến khuyên tôi không tham gia, như Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Thân, Lê Ngọc Trà. Vả lại đã từng phụ trách Hội đồng lý luận phê bình sau Đại hội nhà văn lần thứ 4, tôi thấy Hội đồng này thực chất không có vai trò gì, bị vô hiệu hoá ngay cả đến việc kết nạp hội viên và tặng giải thưởng (về lý luận phê bình).

Nhưng có phải vì thế mà Điềm căm ghét và trả thù tôi hay không thì lúc ấy tôi không tin. Tôi vẫn nghĩ, Điềm làm gì đến nỗi tiểu nhân như thế.

Nhưng thôi, hãy trở lại chuyện Trần Mạnh Hảo.

Lần đầu tiên tôi biết Hảo là do Hữu Thỉnh. Hữu Thỉnh buộc phải tổ chức một cuộc trao đổi về tiểu thuyết Ly Thân. Thỉnh nói riêng với tôi nương nhẹ khi phát biểu để đỡ tội cho Hảo.Té ra giữa Hữu Thỉnh và Hảo đã có quan hệ thân tình rất lâu rồi.

Ở Đại hội nhà văn lần thứ IV và lần thứ V, Hảo ngồi cạnh tôi, nói chuyện rất thân mật. Y còn tặng sách tôi và chép thơ vào sổ tay tôi.

Tôi thường được mời vào Sài Gòn công tác. Hảo có lần tìm đến thăm tôi ở một căn hộ trong chung cư 21 Lý Tự Trọng, nơi ở của con trai tôi, có thời gian công tác ở Thế giới mới (Hiện tôi còn giữ hai tấm ảnh chụp với Hảo ở căn hộ này.) Mỗi lần vào Sài Gòn, tôi thường được gọi đến nhậu ở “dinh cơ” Thu Bồn. Nhiều lần tôi thấy Hảo cũng có mặt ở đấy cùng với vợ. Lúc ấy Hảo đóng vai cấp tiến.

Vậy mà vào đầu nhưng năm 90, hảo trở cờ, đánh vào phái cấp tiến từng nhậu với y ở chỗ Thu Bồn.

Lúc đầu những bài trở cờ của Hảo đăng ở báo Công an Thanh phố Hồ Chí Minh. Con trai tôi hỏi Hảo: “Sao anh lại viết như thế?”, Hảo trả lời: “Chú mày phải cho anh kiếm bát cháo chứ!”. Nghe nói, vợ hắn quốc tịch Pháp, thường buôn thuốc tây từ Paris về Sài Gòn. Hắn cần trở cờ để giúp vợ dễ dàng giao thiệp với Công an, với Hải quan. Anh Đức đã bầy cho hắn mẹo ấy và chỉ đạo hắn đánh vào cánh đổi mới. Đúng là hắn đã chừa ra không đụng đến bọn cơ hội bảo thủ như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Anh Đức, Bảo Định Giang, Trần Thanh Đạm, Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Phương Lựu..vv…

Hảo đánh vào hầu hết những bài viết của tôi, từ sách chuyên luận (Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn) đến sách giáo khoa, từ bài viết về Hồ Chí Minh, về Văn học giai đoạn 1945 – 1975, bài Tổng quan văn học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đến bài viết về Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyên Hồng, Hoài Thanh..vv…

Tất nhiên tôi chẳng kể lại làm gì những bài viết mà những người có học hành hẳn hoi và đứng đắn đều thấy là vừa ngu vừa đểu. Tôi chỉ ghi lại một trường hợp, do sử dụng Hảo mà nhiều nhân vật trong bộ máy quản lý văn hoá, giáo dục của ta trở thành trò cười.

Năm 1977, báo Nhân dân đăng một bài của Hảo phê phán bài viết của tôi trong sách giáo khoa Cải cách giáo dục lớp 12. ấy là các bài Nguyễn ái Quốc Hồ Chí MinhKhái quát về Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975. Đại khái y cho tôi phủ nhận giá trị văn chương của văn thơ Hồ Chí Minh khi cho rằng, đối với Hồ Chí Minh, sáng tác văn thơ trước hết là hành vi chính trị và đưa ra luận điểm phân biệt thơ của Người làm hai loại: một là thơ tuyên truyền chính trị trực tiếp giống như những bài ca, bài vè nhằm vào đại chúng văn hoá thấp, hai là thơ nghệ thuật làm để giải trí cho mình hay một số cán bộ cao cấp gần gũi với mình, thường viết bằng chữ Hán. Còn về bài Khái quát văn học 1945 1975 thì cho là tôi phủ nhận văn học Cách mạng.

Nguyễn Đức Bình tán thành bài viết này. Ông triệu tập một hội nghị gồm nhiều vị quản lý văn hoá văn nghệ như Trần Hồng Quân, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Hữu Thọ, Hà Xuân Trường, Đặng Hữu, Nông Quốc Chấn, Hữu Thỉnh…

Tất cả đều nhất trí vất bỏ hai bài viết của tôi và tìm người viết thay. Điều đáng chú ý là tất cả các vị có mặt trong cuộc họp này không có ai làm công tác nghiên cứu văn học, không có ai nghiên cứu về văn thơ Hồ Chí Minh cả.

Các ý kiến đều được viết ra, nghĩa là có văn bản. Anh Hà Bình Trị, thư ký của hội nghị, có gửi cho tôi một số bản chụp.

Đọc các ý kiến này mới biết những ông lãnh đạo văn hoá như Nguyễn Đức Bình, Hữu Thọ, Hà Xuân Trường, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, cứ tưởng trình độ nhận thức cũng khá, hoá ra không phải. Cũng y như lý lẽ của Trần Mạnh Hảo vậy thôi. Mà đều rất chủ quan, toàn nói giọng khẳng định không chút dè dặt những điều rất nông cạn, hời hợt (Chỉ có Nguyễn Đình Thi có tỏ ra dè dặt – anh không dự hội nghị nhưng có gửi thư đến. Anh đề nghị việc xem xét, sửa chữa sách giáo khoa nên mời các nhà chuyên môn trao đổi với các giáo sư soạn sách.)

Trình độ văn hoá, trình độ nhận thức thấp tất đẻ ra lối lãnh đạo văn hoá một cách thô bạo. Chẳng hiểu gì cả mà dám can thiệp sâu vào chuyên môn, lại dựa theo ý kiến một tên vô lại. Và họ khinh bỉ trí thức đến thế là cùng: không mời tôi và bất cứ một nhà nghiên cứu văn học nào đến để tham khảo ý kiến. Mà không phải không có những thông tin khác. Giáo sư Hoàng Như Mai và giáo sư Lê Trí Viễn có phản ứng trên báo. ngoài ra có một số bài nói lại khá cặn kẽ về Trần Mạnh Hảo và về vấn đề Tuyên ngôn độc lập trong chương trình PTTH ccgd của Đỗ Ngọc Thống, Đặng Lưu, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Gia Phong… Lại có cả một bản tường trình cặn kẽ của Nhà xuất bản Giáo dục chung quanh vị trí của bài Tuyên ngôn độc lập trong sách giáo khoa từ tiểu học, phổ thông cơ sở đến phổ thông trung học để thấy chưa có bài văn nào được học quá nhiều như thế.

Nhưng mặc, họ vẫn tin ở Trần Mạnh Hảo hơn (tuy Hữu Thọ là học trò của giáo sư Hoàng Như Mai.)

Ít lâu sau, tôi được ông Trần Hồng Quân, bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo mời đến gặp sau giờ làm việc. Tôi đến nơi thì đã thấy mặt Trần Hồng Quân, Đỗ Bình Trị, Vũ Quốc Anh, Nguyễn Như ý, và một thư ký riêng của ông Quân.

Trần Hồng Quân phổ biến cho tôi về nhận định và cách sử lý hai bài viết của tôi trong sách giáo khoa. Sau đó hỏi tôi có ý kiến gì không.

Tôi nói, nếu anh gọi tôi đến chỉ để phổ biến như thế thì tôi chả có ý kiến gì, còn nếu anh hỏi tôi như một nhà nghiên cứu văn học thì tôi sẽ nói. Quân mời tôi nói.

Buổi ấy tôi phát biểu rất thẳng thắn và quyết liệt, đại khái như sau: Các anh khinh thường sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh quá, chả cần nghiên cứu gì cũng hiểu được. Thực ra các anh chẳng hiểu gì. Nếu gọi tôi đến, tôi giảng cho các anh nghe 15 phút các anh sẽ hiểu ra ngay.

Tôi lại nói, việc bỏ bài viết của tôi khỏi sách giáo khoa làm thiệt thòi cho hai đối tượng: một là Hồ Chí Minh, hai là giáo viên, học sinh. Hồ Chí Minh thiệt vì từ nay sẽ bị hiểu sai, đánh giá sai. Giáo viên học sinh thiệt vì từ nay không được dạy và học một bài viết chính xác, khoa học. Còn tôi thì chẳng thiệt hại gì. Vì tiêu chuẩn phong phó giáo sư, giáo sư người ta không tính điểm cho sách giáo khoa phổ thông.

Tôi nói tiếp, càng sôi nổi hơn: hiện nay chúng ta đang ra sức chống nhiều tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm… Theo tôi Trần Mạnh Hảo là một tệ nạn nguy hại hơn nhiều vì hắn làm cho trí thức mất tin tưởng ở Đảng.

Hôm ấy, tiễn tôi ra xe, Vũ Quốc Anh bảo tôi: “Anh Quân nói, anh Mạnh anh ấy phát biểu đúng đấy”.

Nhân đây xin kể một chuyện vui.

Đầu năm 1996, ở Pác Bó, Cao Bằng, người ta tổ chức lễ kỷ niệm rất to ngày Bác Hồ về Pác Bó (2/ 1941). Tôi và nhiều cán bộ nghiên cứu khoa học được mời lên dự. ở Pác Bó người ta xây dựng một ngôi đền thờ Bác Hồ. Mọi người lên Pác Bó thường vào đền dâng hương. Tôi tới thắp hương và khấn (cho vui thôi): “Cháu viết về Bác cũng nhiều, và viết cũng khá. Vậy mà Bác không phù hộ cháu, để chúng nó đánh cháu như thế!”

Dịp ấy giáp Tết âm lịch. Tôi vừa về đến nhà thì có biên tập viên Tạp chí Cộng Sản đến đặt viết bài về văn thơ Hồ Chí Minh để đăng vào dịp kỷ niệm sinh nhật cụ Hồ. Bài viết của tôi nhan đề: “Một sự nghiệp văn học lớn, phong phú, đa dạng” Nội dung lặp lại những luận điểm hệt như trong sách giáo khoa (Tạp chí Cộng Sản 19/5/1996) Bài này được dịch ra nước ngoài trong Sciences Sociales cùng năm ấy.

Cụ Hồ thế mà thiêng thật!

Hai bài viết của tôi trong sách giáo khoa Cải cách giáo dục lớp 12, tuy đã bị thay bằng bài của anh Hà Minh Đức, nhưng nhiều giáo viên nói với tôi vẫn dạy theo bài cũ.

Bây giờ lại cải cách chương trình và sách giáo khoa một lần nữa. Hai bài của tôi lại được lấy lại. Không biết các ông Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Hữu Thọ, Hà Xuân Trường, Hữu Thỉnh có còn phản đối nữa không?

Gần đây bộ mặt Trần Mạnh Hảo thế nào, ai nấy đều rõ cả, chả cần nói làm gì. Chỉ thương cho những vị chót dùng Hảo, chót tin Hảo.

Nghe nói Hảo nay lại có nhu cầu khác, nhu cầu này đòi hỏi phải chửi Đảng thật ác. Và Hảo thấy cần phải trở cờ lần nữa, trở cờ ngược lại. Đối với Hảo thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì y vốn có máu phản bội. Nhưng thật tội cho những người dùng Hảo. Đúng là Bá Kiến dùng Chí Phèo, cuối cùng trở thành nạn nhân của hắn.

Nhớ hồi nào, khi Hảo bắt đầu đánh tôi, tôi gọi điện cho Nguyễn Khoa Điềm (lúc ấy anh chưa vào Bộ chính trị) rằng sao Đảng lại dùng Trần Mạnh Hảo. Đảng dùng một kẻ như thế thì tôi thương Đảng lắm. Lúc đó tôi nhớ Điềm đã trả lời tôi: “Anh nói thế người ta khó tiếp thu lắm”.

Bây giờ không biết Điềm có còn nhớ cú điện thoại đó không?

Hẳn là anh phải thừa nhận tôi đã nói đúng.

Đây là một bài học đau đớn đối với nhiều nhà lãnh đạo văn hoá giáo dục. Họ đã bị Hảo lỡm cho một vố thật đau. Một bài học cần rút ra: dùng người phải chú ý đến nhân cách, đến cái tâm, cái đức của anh ta. Đừng chỉ có tin vào lời phát ngôn. Phát ngôn tiến bộ mà nhân cách kém thì đích thị là cơ hội chủ nghĩa.

Nhưng nói cho vui thế thôi, chứ mục đích không tốt thì dùng người tốt sao được! Người tốt nào lại đi làm tay sai cho họ chứ?

Cuối cùng tôi phải nói đến bố con Lê Xuân Đức, Lê Tuấn Anh. Cuộc đời tôi chưa bao giờ gặp phải loại người bỉ ổi đến thế.

Lê Tuấn Anh là sinh viên khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Bố là Lê Xuân Đức dạy trường chuyên văn Lam Sơn Thanh Hoá. Đức nhờ chạy chọt được cho con gái Hà Trọng Hoà, bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá, thi đỗ học sinh giỏi và vào được đại học, Hoà trả công, đề bạt y làm phó chủ tịch Hội văn nghệ Thanh Hoá, rồi đại biểu quốc hội. ở đây, hắn lại chạy được một chân ở vụ báo chí hay giáo dục gì đó của quốc hội.

Khi Lê Tuấn Anh còn là sinh viên, Lê Xuân Đức còn ở trường Lam Sơn Thanh Hoá, tôi có lần được mời vào dự trại bồi dưỡng giáo viên. Tối nào Lê Xuân Đức cũng đem nem và rượu đến khách sạn nơi tôi ở, mời nhậu. Y còn mời tôi tới nhà chiêu đãi.

Vậy mà khi là đại biểu quốc hội, con được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, lập tức hắn trở mặt. Tôi nhớ trong một kỳ hội trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm vốn là sinh viên cũ, đang học ở Nguyễn ái Quốc, đến dự. Tôi ngồi cùng Nguyễn Khoa Điềm nghe sinh viên đọc thơ, Lê Xuân Đức không biết từ xó xỉnh nào chồm tới bắt tay Nguyễn Khoa Điềm. Tôi ngồi bên cạnh, hắn lờ đi coi như không quen biết. Hắn cũng lặp lại một cử chỉ như thế khi tôi đang ngồi với Nguyễn Văn Hạnh, lúc đó là thứ tưởng Bộ giáo dục. Hắn từ một hàng ghế xa, chạy lại bắt tay Hạnh và lờ tôi đi.

Tất nhiên được Đức bắt tay thì có danh giá gì đâu. Tôi nêu chi tiết này chẳng qua vì nó thể hiện rất rõ bản chất con người Lê Xuân Đức. Thảo nào khi tôi vào Thanh Hoá, giáo viên trường Lam Sơn gọi hắn là Xuân tóc đỏ.

Lê Tuấn Anh khi còn là sinh viên, thường chạy đến tôi luôn, tỏ ý hâm mộ và sẵn sàng phục vụ tôi khi tôi cần đến. Nhưng đến khi được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy thì hắn đã viết bài phê phán tôi với giọng điệu rất hỗn.

Thì ra bố con Lê Xuân Đức, Lê Tuấn Anh đã đánh hơi được con đường tiến thân kiểu Nguyễn Văn Lưu, Trần Mạnh Hảo.

Theo Chu Văn Sơn, bạn từ thời học sinh phổ thông của anh, thì từ khi Lê Tuấn Anh còn nhỏ, bố là Lê Xuân Đức đã bồi dưỡng cho cậu con trai thứ tâm lý “vĩ cuồng.” Do một tai nạn ngẫu nhiên ảnh hưởng tới não bộ, tâm lý vĩ cuồng càng phát triển, trở thành bệnh hoạn thật sự. Tuấn Anh học giỏi, có tham vọng lớn, nhưng quá nôn nóng được nổi danh, lại sẵn có cái gien Xuân tóc đỏ của bố, nên đã cùng bố đi theo con đường cơ hội chủ nghĩa bất chấp đạo lý làm người.

Tuấn Anh đã viết liền hai bài rất dài đăng trên Quân đội nhân dân tháng 4 năm 1995 phê phán tôi đã hạ bệ thơ văn Hồ Chí Minh.(bài Đọc thơ Bác, thời nayBàn về cách đánh giá thơ văn Hồ Chí Minh trong Sách giáo khoa 12 – ký tên Nguyễn Ngọc Châu)

So với cách viết của Trần Mạnh Hảo, Lê Tuấn Anh xuyên tạc, qui chụp có vẻ tinh vi hơn, nghĩa là xảo quyệt hơn, khoe kiến thức một cách kín đáo hơn. Nhưng mục đích cũng thế thôi: đánh vào cánh đổi mới. Không phải ngẫu nhiên mà dưới đầu đề Đọc thơ Bác, thời nay, hắn nói tôi, trước công cuộc đổi mới, viết về thơ Bác rất tốt, nhưng từ khi đổi mới đã chạy theo phong trào, hạ bệ Hồ Chí Minh.

Do một cơn vĩ cuồng nổi lên khi chưa đạt được “chí lớn”, Tuấn Anh đã nhảy lầu tự tử trong thời gian làm nghiên cứu sinh ở Nga.

Nếu Tuấn Anh còn sống, có lẽ Trần Mạnh Hảo phải gọi bằng cụ.

Tôi thật buồn vì có một học trò như thế. Nhưng nghĩ lại thấy cũng còn may, may hơn Đức Chúa Giê Su rất nhiều. Chúa Giê Su có mười ba học trò thì có một kẻ phản bội. Tôi có hàng nghìn học trò, một kẻ phản bội thì có nghĩa lý gì đâu – vì thế có người cho tôi là có cung học trò trong lá số tử vi. GiêSu bị phản bội đến nỗi phải chết. Tôi bị Lê Tuấn Anh phản bội, chẳng những không chết mà uy tín cũng chẳng sứt mẻ gì.

Lê Tuấn Anh chết rồi, bố Lê Xuân Đức vẫn cố vớt vát danh vọng cho đứa con bất hạnh. Y đề nghị tặng giải thưởng lý luận phê bình của Hội nhà văn cho một tập bài viết của Lê Tuấn Anh. (vì thấy sách của Trần Mạnh Hảo đã được nhận giải thưởng) Và, không biết dùng cách nào y đã lôi kéo được khá nhiều “tri thức” tới hội thảo về sự nghiệp của Lê Tuấn Anh ở Thư viện quốc gia Hà Nội và viết bài ca ngợi. Đáng chú ý là bài của ông giáo sư Mai Quốc Liên đăng trên Văn nghệ Trẻ, đánh giá LêTuấn Anh là một “nhà bác học trẻ” và nêu vấn đề chúng ta phải làm gì để xứng đáng với người thanh niên tài năng xuất chúng này.

Anh Nguyễn Xuân Đức, chuyên viên ở Ban văn hoá tư tưởng Trung ương nói với tôi: “Những lời lẽ Mai Quốc Liên ca ngợi Lê Tuấn Anh chỉ thấy ở bài Điếu văn của ông Lê Duẩn ca ngợi Bác Hồ.”

Nhưng nghĩ đi, nghĩ lại, thấy Lê Tuấn Anh thật đáng thương. Giá cậu ta có một ông bố tử tế thì đâu đến nỗi. Có lần cậu ta đã theo ông bác là Hoàng Tiến Tựu đến tôi và một lần khác, nhờ người chuyển thư xin lỗi tôi. Nghĩa là cũng có những giây phút ăn năn hối hận. Nhưng chắc rồi lại bị ông bố cuốn vào con đường danh lợi nên lương tâm lại tắt ngấm. Anh Nguyễn Hải Hà tổ trưởng tổ văn học nước ngoài của khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội mà Lê Tuấn Anh là tổ viên, đã khuyên nên cho cậu nghỉ ngơi để điều trị bệnh. Nhưng Lê Xuân Đức không nghe, vẫn tiếp tục khuyến khích con lao vào giành giật danh và lợi để đến nỗi học hành quá căng thẳng khiến bệnh tình tái phát (trước cuộc nhảy lầu ở Nga, Tuấn Anh đã có một lần lao đầu vào xe lửa xuýt chết).

***

Có lẽ vì tôi luôn luôn bị qui chụp chính trị như thế, nên có những chuyện đồn đại thất thiệt cả ở nước ngoài.

Đầu tháng 3 năm 1993, một ngày mưa gió ướt át. Tôi lúc ấy còn ở Đồng Xa. Bỗng có một cô nhân viên phòng văn thư Hội Nhà văn lặn lội tới đem giấy mời và thư riêng của anh Chính Hữu, phó tổng thư ký Hội nhà văn.

Giấy mời đến dự cuộc nói chuyện của đoàn nhà văn Thuỵ Điển, sau đó nghe đọc thơ của các nhà thơ Việt Nam và Thuỵ Điển. Địa điểm 65 Nguyễn Du, 9 giờ sáng thứ Năm 4 – 3 – 1993.

Còn thư riêng của anh Chính Hữu thì cho biết “Đoàn nhà văn này (nhà văn Thuỵ Điển) sang có mang theo một danh sách những nhà văn nói là bị bắt, và họ muốn tìm hiểu thực hư – Đáng tiếc là trong danh sách ấy có tên anh!!”

Hôm ấy đến gặp mấy ông Thuỵ Điển ở trụ sở Hội Nhà văn, tôi được Ban chấp hành giới thiệu với đủ mọi danh hiệu cao quý: đảng viên, giáo sư, nhà giáo ưu tú..vv…

Tôi hỏi tin tôi bị bắt ở đâu ra. Họ nói đọc trên một tờ báo ở Hồng Kông.

Một điều lạ là tất cả những người có trong danh sách bị bắt đều không có ai bị bắt cả: Trần Huy Quang, Phùng Quán, Nguyễn Duy, Nguyễn Minh Châu (đã chết), Nguyễn Đăng Mạnh.