Chương 9: Chế độ Ngô Đình Diệm và người Mỹ

Sau vụ biến cố đẫm máu tại Đài Phát thanh Huế 4 ngày, ông Nhu đã cho nổ một trái bom làm rung động giới ngoại giao Mỹ, khi ông Nhu tuyên bố với phái viên tờ Washington Post “Cho đến lúc này Chính phủ Việt Nam cộng hoà không thấy cần thiết một số cố vấn quân sự quá lớn, cho nên Việt Nam Cộng hoà có thể yêu cầu Chính phủ Mỹ cho rút một nửa số cố vấn quân sự Mỹ, tức là chỉ nên duy trì 7, 8 ngàn là đủ (Washington Post 12-5-1963). Cũng vào thời gian này ông Nhu nói với giáo sư Bửu Hội “Đã đến lúc mình phải xét lại sự viện trợ và hợp tác của Mỹ. Anh có thể giúp tôi tìm sự ủng hộ thân hữu của Pháp và các quốc gia Bắc Phi. Trong tình thế hiện nay chúng ta phải đi đến một modus vivendi thoả ước với Bắc Việt”. Sáng chủ nhật hôm ấy ông Nhu cũng lặp lại câu nói như vậy với một vài cộng sự viên thân cận. Nhưng ai nấy đều cho rằng con đường mà ông Nhu sắp đi tới rất nguy hiểm. Nhưng ông Nhu vẫn chủ quan cho rằng kế hoạch ấp chiến lược và đường lối ngoại giao mới qua trục Paris và Á phi sẽ tạo cho miền Nam đủ tư thế chấp thuận thoả ước với miền Bắc. Nhưng ông Nhu quên rằng với 16 ngàn cố vấn Mỹ và mỗi ngày Mỹ phải chi trên một triệu dollars cho cuộc chiến tại Việt Nam (1963) thì không dễ gì Mỹ có thể để cho ông Nhu tự do hành động khác với những đường lối của họ.

MỘNG ƯỚC HIỆP THƯƠNG HAI MIỀN NAM BẮC

Trước năm 1961 Ngoại trưởng Pháp Couve de Murviìle sau cuộc tiếp xúc với ông Nhu tại Paris (196l) đã phê bình ông “Ngô Đình Nhu là một người có nhiều ảo tưởng”. Ông Murville cũng như bác sĩ Trần Kim Tuyến cho rằng phê bình như vậy cũng có phần đúng. Theo ông Tuyến “ông Nhu là một chính khách có suy tư về chính trị, có khám phá, có sáng tạo trên bình diện chiến lược. Nhưng thực tại tình hình chính trị miền Nam chính nó đã làm cho suy nghĩ của ông Nhu trở nên ảo tưởng”. Một buổi sáng trời trong xanh, ông Nhu mỉm cười mô tả một cách đầy thi vị với ông Tuyến: “Buổi sáng Việt Nam mầu trời pha lê, toa thấy chiến tranh phi lý quá hỉ. Bọn nó (tức Mỹ) như con hổ bị thương, chúng sẽ cho dollars để Phật giáo phá moa… Nhưng chế độ này thì phải tồn tại”.

Khi ông Nhu toan tính bắt tay với miền Bắc Việt Nam thì trước hết ông đã gặp phản ứng hết sức bất lợi cho kế hoạch riêng của ông… Phản ứng đó xuất phát ngay từ tập thể Thiên Chúa giáo và nhất là một số người khối dân di cư.

Một số trong khối người đó từng hậu thuẫn vô giá cho chế độ Ngô Đình Diệm, những ngày đầu 1954-1955. Tuy toan tính của ông Nhu không mấy ai biết nhưng hẳn nhiên không thể qua mắt được các đức Giám mục Thiên Chúa giáo. Đức cha Lê Hữu Từ có thể là người được biết quá thông suốt về những toan tính của ông Nhu. Điều này cha Jean (một Linh mục người Pháp lúc đó đang sống tại Sài Gòn) đã có nhiều cơ hội được am tường một cách tương đối rành rẽ. Sau cuộc biểu tình dữ dội của Phật giáo ngày 17-7, phản ứng của Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Đài VOA thông tin và bình luận một cách có thiện cảm hay đúng hơn là đã gián tiếp ca ngợi cuộc đấu tranh của Phật giáo. Cha Jean được mời vào dinh gặp ông Nhu. Cuộc gặp gỡ kéo dài trong hai tiếng đồng hồ. Ông Nhu đã đề cập về cuộc xuống đường của Phật giáo ngày 17, ông nói: “Tôi có nhiều bằng chứng là hiện nay Cộng sản đã thao túng phật giáo. Rất nhiều cán bộ Cộng sản cải trang vào đó với tư cách Phật tử hay các nhà sư”.

Cha Jean chỉ lắng nghe mà không đáp. ÔngNhu với thái độ giận dữ: “Tôn giáo là tôn giáo, quốc gia là quốc gia. Tổng thống không thể nào nhượng bộ họ được nữa. Đã đến lúc Chính phủ phải có biện pháp mạnh. Nếu Chính phủ hạ lệnh thì chỉ trong vòng một ngày, quân đội và cảnh sát có thể dẹp tan phong trào tranh đấu này”.

Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố vấn, đây là vấn đề nguy hiểm và rất tế nhị… vấn đề Phật giáo theo tôi biết đã có tầm mức quôc tế. ông Cố vấn có thể nào tìm được cách giải quyết tốt đẹp hơn là đàn áp không”.

Ông Nhu lừ mắt nhìn cha Jean, ông lắc đầu: “Đến nay thì không còn cách nào giải quyết tốt đẹ pnữa. Hiện các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang bất mãn với Phật giáo, họ đang thúc xúi Tổng thống hạ lệnh cho họ được phép dẹp cho yên”. Cha Jean không còn biết nói gì hơn. ông Nhu lại tiếp tục: “Tôi hiểu, nhiều kẻ đang âm mưu gây rối miền Nam… Chính phủ không thể tha thứ bất cứ một cuộc nổi loạn nào”.

Bất chợt ông Nhu hỏi cha Jean: “Phía Hoa kiều Chợ Lớn cha thấy thái độ chung của họ như thê’ nào”. Cha Jean đáp “Hoa kiều tại Việt Nam như ông Cố vấn đã rõ, họ chỉ biết làm ăn buôn bán”. Ông Nhu nói: “Cha có thể giúp tôi làm mộ tviệc riêng?”. Cha Jean đáp: “Tôi sẵn sàng nếu thấ ycó khả năng”. Ông Nhu ngần ngại rồi đi thẳng vào câu chuyện: “Cha có thể giúp tôi một việc quan trọng này ngoài cha, Tổng thống không muôn uỷ thác cho một ai”.

Ông Nhu lại yên lặng hút thuốc lá lâu hàng 5, 7 phút. Đoạn ông nói: “Cha sang Đài Loan giúp Chính phủ được không”. Cha Jean chưa trả lời, ông Nhu nói tiếp: “Cha có đủ uy tín nói chuyện với Chính phủ Đài Bắc, làm sáng tỏ cho họ rõ là Việt Nam Cộng hoà không bao giờ chủ trươg và kỳ thị tôn giáo. Cuộc tranh đấu của Phật giá ođang bị lợi dụng”. Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố vấn, tôi nghĩ việc này ông Cố vấn nên tiếp xúc thẳng với Dại sứ Đài Bắc hoặc nếu không ông Cố vấn có thể uỷ thác cho ông Bộ trưởng Ngoại giao”.

Sự từ chối khéo của cha Jean làm ông Nhu mất bình tĩnh: “Bộ trưởng Ngoại giao ấy à? ông ta không làm được cái chi hết. Còn ông đại sứ Đài Bắc, cũng đang bị dư luận đầu độc. Tôi muốn cha sang Đài Loan nói cho Chính phủ Tưởng Giới Thạch biết rõ sự thực và cha nói giùm Chính phủ Đài Bắc phải chấm dứt ngay chiến dịch báo chí ở Đài Loan hiện đang xuyên tạc Chính phủ Việt Nam Cộng hoà và họ đang cổ vũ cho cuộc tranh đấu của Cộng sản duới chiêu bài tôn giáo”.

Cha Jean nói: “Xin ông Cố vấn cho tôi trình bày ý hiên. Theo tôi, có thể nói Cộng sản len lỏi vào hàng ngũ tranh đấu của Phật giáo nhưng tôi tin rằng cuộc tranh đấu này vẫn có tính tôn giáo đấy chứ. Tôi không tin Thượng tọa Thích Tâm Châu hay ông Mai là Cộng sản. Đại sứ của ông Tưởng Giới Thạch cũng đã nói với tôi nhu thế. Xin ông Cố vấn thông cảm cho sự khó khăn của tôi, tôi xin không thể nói gì khác hơn là như vậy”.

Ông Nhu hỏi: “Ngay cha cũng tin vào dư luận là Tổng thống sẽ thương thuyết với Bắc Việt”. Cha Jean đáp: “Đó là điều làm tôi ngạc nhiên”. Cha 1ại hỏi “Chắc chắn ông Cố vấn có theo dõi hoạt động của “Uỷ ban Hoà bình phục hưng miền Nam”(Comité pour la Paix et la Rénovation du Sud Việt Nam). Ông Nhu “à” một tiếng khá lớn lắc đầu với thái độ khinh miệt “Tôi biết tổ chức ấy là một con số không, do một số người Pháp đỡ đầu. Trần Văn Hữu chắc cha biết rõ?” Cha Jean đáp “Tôi có gặp ông ấy một vài lần”. Ông Nhu bỗng cao hứng nói một hơi thật dài. Đến nay cha Jean chỉ còn nhớ lại một số nét chính đại cương: “Trần Văn Hữu hiện nay đang được nhóm Paul Devinat Bolaert, Pignon đỡ đầu, hắn đòi biết gì không? Hắn đòi phải lật đổ Chánh phủ này, nghĩa là xoá bỏ chế độ này, sau đó tổ chức một chánh phủ liên hiệp, có Mặt trận Giải phóng tham gia và miền Nam sẽ trung lập” Cha Jean lại hỏi: “Thưa ông Cố vấn nghĩ như thế nào về đề nghị của ông Hữu?”. Ông Nhu đáp: “Đó là một đề nghị trẻ con, tôi không quan tâm, nếu có nói chuyện trung lập thì chỉ nói với Bắc Việt thôi chứ Mặt trận Giải phóng chỉ là một tổ chức phiến loạn”. Cha Jean nhân cơ hội này lại hỏi “Thưa ông cố vấn, ông có nghĩ đến vấn đề nói chuyện với Bắc Việt không?”.

Ông Nhu mỉm cười: “Đó là vấn đề chính mà hôm nay tôi cần gặp cha và nhờ cha giúp tôi”.

BẮT TAY VỚI CỘNG SẢN CHỈ LÀ CHIẾN THUẬT TRẢ ĐŨA HOA KỲ

Qua cuộc tiếp xúc với ông Nhu, cha Jean nhận thấy ông Nhu đang trải qua cơn dao động với một thái độ quyết liệt. Về vấn đề bắt tay với Bắc Việt, ông Nhu tỏ ra hết sức dè dặt. Ông vẫn không tin tưởng vào thế trung lập mà liên hiệp với Bắc Việt lại càng không thể có. Ông Nhu nhắc đi nhắc lại với cha Jean: “Cha đã hiểu biết nhiều về Cộng sản.. Chắc cũng biết rõ là Tổng thống ghét Cộng sản như thế nào”. Sau đó ông rất dè dặt tâm sự: “ Trong tình thế này Hoa Kỳ cứ gây khó khăn mãi cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tôi phải lựa chọn”. Ý ông Nhu muốn nói là ông phải lựa chọn một thế đứng mới làm điều kiện trả đũa áp lực của Hoa Kỳ. Cha Jean cũng nhận thấy chưa bao giờ ông Nhu lại tỏ vẻ tức giận Hoa Kỳ như vậy. Trong cuộc gặp gỡ hôm ấy, ông Nhu muốn nhờ Cha Jean qua Đài Loan rồi trở về Paris. Về việc qua Đài Loan ông Nhu cho biết ông rnuốn nhờ cha Jean nói với nhà cầm quyền Đài Loan biết rằng, Tổng thống Diệm vẫn giữ vững lập trường chống Cộng không có vấn đề liên hiệp, tuy nhiên ông Nhu nhấn mạnh “Tuy nhiên nếu quốc gia chống Cộng như Trung Hoa dân quốc1 không giúp đỡ tích cực Việt Nam Cộng hoà và không làm cách nào cho Mỹ bớt gây rối Miền Nam thì buộc lòng Việt Nam cộng hoà phải chọn lựa, nghĩa là sẽ có chuyện ngưng bắn và thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường với Bắc Việt”.

Điểm sau cùng mà ông Nhu nhấn mạnh “Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn ủng hộ Trung Hoa Dân quốc và chính vì thế mà Hoa kiều tại Việt Nam Cộng hoà đã hưởng mọi ân huệ. Nếu tình thế thay đổi nghĩa là khi Chính phủ Việt Nam Cộng hoà buộc lòng phải bắt tay với Cộng sản Bắc Việt thì lúc ấy Hoa kiều không còn được hưởng ân huệ như vậy và các tổ chức chìm nổi của Chính phủ Đài Loan tại miền Nam Việt Nam cũng sẽ khó khăn rồi tự nó tan rã”.

Trước khi ra về ông Nhu nắm chặt tay cha Jean tiễn ra tận hành lang, ông nhắc đi nhắc lại:”Bất cứ một người Công giáo nào cũng không thể nghi ngờ được lập trường chống Cộng của Tổng thống”. Ông Nhu ngập ngừng khẽ nhún vai, dáng điệu ấy cho đến nay cha Jean vẫn chưa thể quên. Ông Nhu nói: “Lập trường chống Cộng phải đi song song với lập trường dân tộc. Nếu Hoa Kỳ không tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam thì buộc lòng Tổng thống sẽ phải xét lại công cuộc viện trợ. Chắc Cha đã rõ nhiều quốc gia sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam, Tổng thống sẽ cân nhắc lựa chọn”. Trong buổi tiếp xúc này, ông Nhu nói có vẻ muốn thanh minh hai điểm quan trọng.

1) Không có chuyện đàn áp Phật giáo.

2) Tập thể Công giáo cứ yên tâm và tin tưởng vào lập trường chống Cộng của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Từ Cha Jean cho đến bác sĩ Trần Kim Tuyến và giới thân cận với ông Nhu đều nhận định rằng ông Nhu muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Mỹ, muốn tìm một thế đứng mới, nhưng chuyện mưu đồ bắt tay với Cộng sản chỉ là một chiến thuật mặc cả với Hoa Kỳ. Nhưng Hoa Kỳ lại dùng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông” quật ngã ông Nhu, khi họ cố tình cho rằng ông Nhu bắt tay với Cộng sản. Một số tướng lãnh và sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng hoà đã bị Hoa Kỳ lung lạc tinh thần bằng cái dư luận: ông Nhu định điều đình với Cộng sản. Thực sự cơ quan CIA không thiếu gì phương tiện, nhất cử nhất động của ông Nhu không qua khỏi con mắt của CIA. Có lẽ vấn đề ông Nhu bắt tay với Cộng sần không làm Mỹ lo ngại bằng vấn đề bang giao Việt-Pháp mỗi ngày càng thêm tốt đẹp, sau nữa là thái độ quá cứng rắn của ông Diệm trước những đề nghị của Mỹ mà ông Diệm cho rằng xâm phạm đến chủ quyền miền Nam Việt Nam (như vụ Cam Ranh, đề nghị đặt Cố vấn Mỹ cạnh Tỉnh trưởng Việt Nam, lập phòng Dân vụ Mỹ cạnh Toà Đại biểu Chính phủ. Sau năm 1963 những vấn đề này được Chính phủ sau đảo chính thoả mãn ngay).

Trước năm 1962, bang giao Việt – Pháp vẫn tẻ lạnh như buổi chợ chiều. Chánh phủ De Gaulle không một chút thân thiện nào đối với Việt Nam Cộng hoà. Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm hiểu thì Tổng thống Diệm do sự thúc đẩy của ông Nhu đã gián tiếp ngỏ ý muốn qua hành hương tại Lourdes và nhân cuộc hành hương này tướng De Gaulle sẽ chính thức mời Tổng thống Diệm thăm viếng Paris. Song điều đó bất thành.

CHẮP NỐI DUYÊN XƯA

Theo cha Jean thì không phải chỉ năm 1963 ông Nhu mới nghĩ đến chuyện phát triển bang giao Việt – Pháp và tìm điểm tựa mới nơi chính phủ De Gaulle. Năm 1961 trong chuyến du hành qua Maroc dự lễ đăng quang Đức vua Hassan II ông Nhu nhân dịp này ghé qua Paris với tư cách riêng. Tuy vậy ông Nhu cũng đến thăm xã giao Ngoại trưởng Pháp Couve de Murville. Tuy với tư cách riêng Ngoại trưởng Couve de Murville cũng mở dạ tiệc khoản đãi ông Nhu với sự hiện diện của Đại sứ Laloutte và ông Étienne Manach đặc trách Á Châu sự vụ tại Bộ Ngoại giao Pháp. Tuy không đạt được một kết quả cụ thể nào nhưng chuyến thăm viếng Paris lần này ông Nhu đã phá được bầu không khí tẻ lạnh giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với Pháp. Kể từ năm 1961, ông Manach trở thành nhịp cầu thông cảm giữa hai Chính phủ. Hơn nữa vẫn theo cha Jean, ông Manach rất có thiện cảm với ông Nhu – một cựu sinh viên trường Cổ học Paris- đó cũng là điểm hào quang dễ dàng thu hút sự cảm phục của giới ngoại giao Pháp. Trước năm 1960, các cha thừa sai Pháp (MPE) từng tỏ ra bị lạnh nhạt bởi chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng sau năm 1960 thái độ của ông Diệm đã thay đổi. Tổng thống Ngô Đình Diệm trở lại ưu ái các cha thừa sai Paris, đặc biệt những cha hoạt động tại Cao nguyên thì Tổng thống mỗi ngày càng thêm tín nhiệm và kính phục. Đó cũng là tia sáng soi đường cho quan hệ thân thiện với Pháp. Một trí thức cỡ như Ngô Đình Nhu tất nhiên dễ dàng thông cảm với Pháp hơn. Cái văn minh cơ khí của Mỹ có tiền dollars viện trợ dù to tát như thế nào cũng khó lòng đè bẹp được cái tinh hoa văn học Pháp, đã tiêm nhiễm sâu xa trong con người trí thức như Ngô Đình Nhu.

Đó cũng là điều dễ hiểu khi ông Nhu giơ bàn tay tiếp nhận người bạn Pháp. Đó cũng là lý do dễ hiểu tại sao những năm 1960-1961 chính quyền Ngô Đình Diệm cho mở hàng loạt các toà Đại sứ tại các quốc gia Á Phi thuộc ảnh hưởng của Pháp. Trong một bài báo nhan đề “La Paix manquée en” của ký giả Georges Chaffard (Express số 990) nhận định rằng trong cuộc gặp gỡ. Couve de Murville – Ngô Đình Nhu (1961) đã không đạt được kết quả vì ông Nhu tự ái. Couve de Murville lại tỏ ra lạnh nhạt. Chaffard viết: “ông Couve de Murville tin rằng bởi thế nào chuyến sang Pháp lần này ông Nhu cũng ve vãn Pháp, nhưng ông Couve de Murville đã thất vọng vì trong suốt bữa tiệc ông Nhu chỉ đề cao chính sách của anh em ông, ca ngợi khu trù mật và tự hào về chế độ Ngô Đình Diệm đang mạnh”. Vẫn theo Chaffard thì ông Etienne Manach linh cảm rằng ông Nhu sang Pháp không phải chỉ để nói những lời “suông” như vậy ông Etienne Manach lại bố trí một cuộc hội đàm Ngô Đình Nhu với Couve de Murville khi ông Nhu từ Rabat (Maroc) trên đường ghé về qua Ba lê. Cuộc hội đàm không đi đến đâu… nhưng đó là cái mốc lớn mở đầu cho giai đoạn mới mà Đại sứ Lalouette đóng một vai trò quan trọng. Đại sứ Lalouette đã hiểu rõ sự rạn nứt trong mối tình đồng minh Mỹ- Diệm. Sự mâu thuẫn giữa Việt-Mỹ ngày càng gia tăng và ông Nhu đã hơn một lần gián tiếp ngỏ ý cho Đại sứ Lalouette hay rằng đã đến lúc Pháp-Việt phải cải thiện quan hệ bang giao và người Pháp có thể đóng một vai trò quan trọng tại bán đảo Đông Dương. Đại sứ Lalouette trở thành người bạn thân của cả Tổng thống Diệm lẫn ông Ngô Đình Nhu. Lalouette đóng vai trò biện hộ cho chế độ Ngô Đình Diệm trước thái độ nghi ngờ của tướng De Gaulle – vì De Gaulle vẫn chưa quên bài học đau đớn 1954-1955, một mặt bị Mỹ đá khỏi Việt Nam một mặt chính quyền Ngô Đình Diệm tẩy chay Pháp. Theo Georges Chaffard nhận định thì theo ông Lalouette anh em ông Diệm quá nhiều tự ái dù anh em ông ta muốn ve vãn Pháp đến mức nào đi chăng nữa, anh em ôngDiệm cũng không nói thẳng ra được. Dần dần, tướng De Gaulle ngả theo chiều hướng thuyết phục của Đại sứ Lalouette.

Nghĩa là: Với sự mâu thuẫn Việt-Mỹ, khi mà ông Nhu muốn tìm một thế đứng mới, thì đây là một cơ hội tốt nhất để Pháp nhảy vào Đông Dương, đóng vai trò mới.

Tưởng cũng nên ghi lại một biến cố ngoại giao đáng cho Hoa Kỳ lo ngại. Tháng 2-1963, một phái đoàn dân biểu của chính quyền Ngô Đình Diệm chính thức qua viếng thăm Pháp quốc do ông Trương Vĩnh Lễ hướng dẫn, gồm có các dân biểu Nguyễn Hữu Chỉnh, Hà Như Chi, Nguyễn Quốc Hưng, Trần Văn Thọ. Phái đoàn dân biểu Việt Nam Cộng hòa được đón tiếp một cách khác thường, Tổng thống De Gaulle đã tiếp phái đoàn tại điện Elyssée và cuộc hội kiến kéo dài 35 phút. Báo chí Pháp trong ngày 14-2-1963 đã nhận định về cuộc hội kiến này. Tờ Le Monde cũng như France Soi coi đây là một biến cố lớn, một khúc quanh quan trọng trong cuộc bang giao Việt-Pháp. Ngày 15-2, Thủ tướng Pompidou cùng với Ngoại trưởng Couve de Murville đã thảo luận rất lâu với phái đoàn dân biểu Việt Nam Cộng hòa với sự tham gia gần như đủ mặt giới danh thương và kỹ nghệ Pháp. Người hoan hỉ nhất trong dịp này là Đại sứ Lalouette. Ông Đại sứ đã thành công trong chặng đầu…Từ đó trở đi, Đại sứ Lalouette trở thành một Đại sứ quan trọng sau Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Phản ứng của Hoa Kỳ như thế nào? Dĩ nhiên Hoa Kỳ không thể công khai phản đối mối tình Việt-Pháp nhưng Hoa Thịnh Đốn bắt đầu phản công lại.

Đại tá Lansdale Fishel người đã từng ủng hộ hết lòng Tổng thống Diệm trong thời gian 1954-1955 thì 1963 lại là người tích cực vận động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Fishel từng lưu ngụ tại miền Nam Việt Nam và đã từng cộng tác với chính quyền Ngô Đình Diệm thì 1963 ông lại chủ trương phải lật đổ ngay Ngô Đình Diệm dù phải dùng biện pháp sắt kể cả việc thanh toán cá nhân Tổng thống Diệm.

CHÍNH HOA KỲ ĐÃ ĐẨY ÔNG NHU VÀO THẾ CHÂN TƯỜNG

Kể từ khi Trung Hoa Dân quốc thiết lập một số đài kiểm thanh tại Nam Việt Nam (chẳng hạn Đài Kiểm thính Phú Bài Huế) thì hiệu năng tình báo gia tăng mạnh mẽ. Điều đáng kể những đài kiểm thính này đều đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Sở nghiên cứu chính trị. Nhân viên Trung Hoa Dân quốc tự coi như nhân viên của sở nghiên cứu chính trị Nam Việt Nam. Không những đài kiểm soát được toàn bộ các làn sóng điện của Bắc Việt, Lào mà còn bao trùm cả miền Hoa Nam. Tuy nhiên có một điều Hoa Kỳ không vừa ý là kết quả khai thác của đài kiểm thính đã không được chuyển giao cho Hoa Kỳ. Mãi sau này, khi cuộc chiến bộc phát mạnh, Hoa Kỳ mới thiết lập một Trung tâm Kiểm thính khác (1962) gần Bộ Tổng Tham mưu để họ sử dụng riêng trong phạm vi cơ quan MACV2.

Qua vụ Đài Kiểm thính ta cũng thấy rõ một phần nào bản chất viện trợ của Mỹ tại xứ này. Rồi vụ Đài Phát thanh Sài Gòn nữa. Khoảng đầu năm 1960 Tổng thống Diệm muốn gia tăng hiệu năng vô tuyến truyền thanh thì đài Sài Gòn lại quá yếu. Ngân sách không cho phép phát triển theo ý muốn, để đương đầu với hiệu năng quá lớn mạnh của Đài phát thanh Hà Nội. Tất nhiên là phải yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ. Song người Mỹ chỉ đồng ý viện trợ máy móc tối tân cùng với chuyên viên điều khiển của họ. Tổng thống Diệm cho rằng đây là một trò chơi nguy hiểm. ông Nhu cũng lo ngại vì nếu máy móc đặt trong tay chuyên viên Hoa Kỳ thì nếu có một biến cố lớn xảy ra, Hoa Kỳ có thể chơi xấu và phá đám bằng khả năng kỹ thuật của họ. Phía Nam Việt Nam có đề nghị Hoa Kỳ huấn luyện chuyên viên của mình và chỉ cần viện trợ máy móc cũng quá đủ. Đề nghị này không được Hoa Kỳ chấp thuận, cuối cùng Tổng thống Diệm cũng bỏ qua không nhắc nhở đến nữa.

Kể từ năm 1962 thế lực Mỹ mỗi ngày càng gia tăng và bao trùm nhiều ngành sinh hoạt quốc gia, chiến tranh càng lan rộng thì thế lực Mỹ cũng có nhiều cơ hội thuận tiện nhất để khống chế chế độ Ngô Đình Diệm. Theo bác sĩ Tuyến thì ông Nhu tâm sự rằng: “Ngân sách quốc phòng tăng như rứa, viện trợ như rứa… buộc phải tìm lại thế quân bình. Chiến tranh càng kéo dài càng bất lợi cho chế độ. ” Theo ông Nhu (thường thổ lộ ý kiến với bác sĩ Trần Kim Tuyến cũng như một số cộng sự viên thân cận) thì chiến tranh sẽ phải sớm chấm dứt. Một là dốc toàn lực để đè bẹp Cộng sản. Nếu hai bên còn nghiêng ngửa và chiến tranh có chiều hướng kéo dài thì phải tìm cách chấm dứt bằng giải pháp chính trị. Ông Nhu tin tưởng ấp chiến lược là một căn bản và một ưu thế cho giải pháp chính trị để chấm dứt chiến tranh. Khi khả năng quốc phòng và chiến tranh phải tuỳ thuộc vào viên trợ Mỹ thì sự mất mát chủ quyền là một điều khó có thể tránh khỏi. Theo Lương Khải Minh cũng như những nhân vật trọng yếu gần Tổng thống Diệm thì vấn đề chủ quyền quốc gia đối với Tổng thống Diệm là vấn đề số 1. Chủ quyền quốc gia gắn liền với tính tự ái quá cao của ông Tổng thống. Bằng chứng là năm 1961, 1962 các cố vấn quân sự Mỹ khuyến cáo chính quyền Ngô Đình Diệm bãi bỏ ngành hiến binh. Lúc đầu Tổng thống Diệm có vẻ thuận ý qua lời trình bày của Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần. Ông Thuần cũng chỉ trình theo đề nghị của cố vấn quân sự Mỹ. Tổng thống Diệm có một điểm do dự là hiện ngành hiến binh, đang phục vụ đắc lực, ông Tổng thống vẫn tin tưởng vào hiến binh vì cho rằng hiến binh “làm việc đúng đắn rành luật pháp”. Nhưng sau đó Tổng thống Diệm cho xếp lại và vẫn duy trì ngạch hiến binh. Tổng thống Diệm bảo ông Thuần: “Cứ thư thả, không có gì thay đổi hết, họ (tức Hoa Kỳ) nói sao mình làm vậy thì còn gì là thể thống quốc gia”. Sự thực lúc đầu Tổng thống Diệm cũng nghiêng theo lời trình bày của ôngThuần nhưng bỗng hầm hầm nổi giận khi ông Thuần cho biết, cố vấn quân sự Mỹ muốn bãi bỏ ngành hiến binh chỉ vì quân đội Hoa Kỳ không có ngành này ( MP đảm trách mọi việc). Cố vấn quân sự Mỹ cho rằng đã có quân cảnh rồi thì hiến binh không cần thiết và sẽ có riêng loại quân cảnh hiếnbinh. Cố vấn Mỹ cho biết, nếu không bãi bỏ ngành hiến binh thì Hoa Kỳ không thể dành một ngân khoản viện trợ cho một ngành không cần thiết như vậy. Tổng thống Diệm coi đây là một áp lực và vô tình đã xúc phạm đến tự ái của một vị Tổng thống cai trị dân theo quan niệm “thiên mệnh”. Do đó mà ngành hiến binh bao nhiêu lần có tin đồn bãi bỏ rồi rút cuộc vẫn được duy trì cho đến ngày sau đảo chính 1-11-1963.

Trên đây là một vài sự kiện trong bao nhiêu sự kiện khác và đó cũng là một nguyên nhân đẩy ông Nhu vào một sự lựa chọn mới.

KHÔNG THỂ LÀM TAY SAI MỘT CÁCH TRƠ TRẼN

Mâu thuẫn Việt-Mỹ càng trầm trọng khi chiến cuộc mỗi lúc càng gia tăng. Trước hết Việt-Mỹ đã xung khắc ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân. Nói đúng hơn, miền Nam Việt nam trở thành một phận gái hẩm hiu do cảnh ngộ của lịch sử mà phải ép duyên gán nợ cho một anh chồng trọc phú. Xin trở lại vụ đài phát thanh để dễ dàng sáng tỏ tính chất xung khắc qua cuộc hôn nhân miễn cưỡng này. Tổng thống Diệm khao khát có được một đài phát thanh tối tân và hiệu năng của nó có thể tương đương với đài Hà Nội, trước hết vì đòi hỏi phải có một chiến lược chính trị trường kỳ tại Bắc Việt với hiệu năng lớn mạnh của đài Sài Gòn thì chính quyền miền Nam mới để dành một chương trình đặc biệt hướng về toàn thể miền Bắc và xa hơn nữa là Lào và Bắc Thái Lan là nơi có hàng ngàn Việt kiều cư ngụ. Đài Sài Gòn không đủ khả năng hoạt động trong một khu vực rộng lớn như vậy. Chính quyền miền Nam đành bó tay vì Hoa Kỳ từ chối lời yêu cầu tối tân hoá đài Sài Gòn. Trong khi đó thì Hoa Kỳ sẵn sàng viện trợ cho Nam Việt Nam một đài tiếp vận địa phương (mà ngân khoản tổn phí có thể gấp đôi ngân khoản tối tân hoá đài Sài Gòn).

Tại sao có vụ mâu thuẫn kỳ cục như vậy? Điều giản dị là Hoa Kỳ muốn độc quyền truyền thanh “tiếng nói chống cộng” của họ qua bức màn sắt Hoa Kỳ không muốn miền Nam được quyền “chia sẻ”… Cho đến lúc bấy giờ đài Sài Gòn vẫn không có gì khả quan hơn xưa. Điều mà trước năm 1963 Tổng thống Diệm ao ước có một chương trình phát thanh đặc biệt hướng về miền Bắc (với một hiệu năng tối đa) thì đã có (1964-1970) nhưng chương trình ấy lại nằm trong hệ thống đài VOF(Voice of Freedom) tuy đài đặt ngay tại Sài Gòn và do nhân viên người Việt đảm trách nhưng thực chất của nó là của Hoa Kỳ qua miệng người Việt.

Tóm lại Hoa Kỳ quan niệm Đài Phát thanh Sài Gòn chỉ có một nhiệm vụ thông tin tuyên truyền trong lãnh thổ miền Nam còn miền Bắc đã có Hoa Kỳ lo liệu (trước hết là Đài VOA sau là Đài VOF). Trí thức Ngô Đình Nhu thúc thủ trong một thực tại viện trợ như vậy thì chỉ còn con đường là cam phận làm tay sai một cách thiếu thông minh và trơ trẽn. Ông Nhu lựa chọn một thế đứng mới tức là lựa chọn một con đường giải thoát khỏi ông chủ keo kiệt. Tiếc thay con đường đó lại đem đến sự giải thoát vĩnh viễn cho ba anh em ông Nhu. Nói ra những mâu thuẫn Việt Nam Cộng hoà và Mỹ thì nhiều lắm. Mâu thuẫn về quan điểm lập trường…mâu thuẫn về chiến thuật, chiến lược.v.v. Khi ông Nhu trở lại thân thiện với Pháp, thì chỉ là một chiến thuật tạo thế chân vạc và cũng là điều kiện doạ Hoa Kỳ “nếu anh bắt bí tôi quá tôi bỏ anh…”

“Tôi sẽ không cô đơn. De Gaulle đã sẵn sàng”. Một khi De Gaulle thân thiện với miền Nam thì lẽ dĩ nhiên Sihanouk sẽ không theo đuổi chính sách thù nghịch với miền Nam nữa và đó cũng là con đường đưa đến thoả hiệp với miền Bắc. Trước sau cái gút của vấn đề chỉ là Pháp. CIA không khi nào để cho miền Nam một mặt sống vì viện trợ Mỹ, một mặt lại đưa tay nắm bàn tay De Gaulle (vẫn bị coi như kẻ thù của Mỹ) CIA không e ngại những toan tính của ông Nhu trong việc tìm một thế thoả hiệp với Cộng sản Bắc Việt nhưng CIA coi việc miền Nam thân thiện với Pháp là một biến cố nguy hiểm và phải đập vỡ từ trong trứng nước.


  1. Tức Đài Bắc 

  2. Cơ quan tình báo quân sự Mỹ.