Chương 8

Cả trại vừa “đánh đồng thiếp” đi được một lúc thôi chứ mấy, thì có tiếng súng nổ chói đanh ngay mang tai. Rền từ rừng xanh vọng về. Liên tiếp năm sáu phát. Tất cả choàng dậy. Ngơ ngác. Sợ hãi. Tiếng Cán quát:

– Tất cả ngồi yên tại chỗ. Cả trại vẫn im lặng như chết. Lại hai tiếng súng nữa. Cách nhau. Phát một. Có tiếng chân người chạy. Tiếng gọi nhau. Và tiếng béc-giê sủa ồm ồm.

– Lại có thằng nào trốn trại rồi.

Tiếng ai đó lầu bầu. Giọng Nghệ An. Một lúc sau là Lê Bá Di giọng Quảng Trị:

– Báo cáo, Di Lê Bá Di, số tù 127, vào nhà mét đi đái.

Im ắng. Bên ngoài im ắng lắm. Có lẽ anh tù trốn đã chạy được vào rừng. Cuộc rượt đuổi diên ra xa trại. Anh ta có trốn thoát được không? Ai thế nhỉ?

Tất cả ngồi dậy trong màn, chờ đợi một sự kiện gì đó nhưng chẳng có gì xảy ra. Thế là lại chen chúc nhau trong nhà mét. Boi lại về màn. Hắn và già Đô như cùng ngả lưng xuống chiếu một lúc. Già chép miệng:

– Trốn đi đâu được mà trốn cơ chứ.

Lại nằm. Lại nghĩ. Nghĩ đến anh tù trốn trại chui lủi trong rừng. Đến các ông công an, đến đàn chó đang lùng sục. Rồi nghĩ dến thân phận mình tù không án, ngày về chẳng có. Thôi. Đừng nghĩ gì nữa. Tất cả sẽ qua. Đến cả cuộc đời mình rồi cũng qua nữa là… Khi đã hoàn toàn yên lặng, có tiếng chân người ngoài sân. Loang loáng ánh đèn pin. Tiếng Chắt khàn khàn:

– Dậy nhé! Tất cả dậy! Dậy! Điểm danh.!

Lại bật dậy. Chui ra ngồi ở đầu màn. Lại xếp bằng tròn. Tay để trên đùi. ngửa lên. Người sàn trên sóng đôi với người sàn dưới. Sàn bên này đối xứng với sàn bên kia. Ông Thanh Vân mát hầm hầm bấm đèn pin soi vào mặt từng người. Rồi đi ra. Chắt lại khoá cửa. Hai người đi sang buồng khác. Còn ngủ nghê gì được nữa. Ngao ngần hết cả người. Nhưng nằm xuống chiếu rồi Lượng vẫn vui vẻ nói lên tâm trạng chung của anh em khi bị điểm danh đột xuất, khi bị rọi đèn pin vào mặt:

– Báo cáo cán bộ. Ai trốn thì trốn, chứ chúng tôi cho ăn kẹo cũng không trốn. Có trốn thì trốn thời gian sơ tán rồi. Chúng tôi cứ phải có hộ khẩu, có sổ gạo không là chết đói.

Nằm trong màn Lượng cứ báo cáo với bóng đêm như vậy. Không ai hưởng ứng Lượng. Tất cả cố gắng tìm đến với giấc ngủ bị ngắt quãng.

Hắn cũng cố chợp được một lúc. Trở dậy trời đã sáng. Sáng hôm ấy trời nắng. Đã cảm thấy cái nắng của đầu hè. Mây bục. Bay. Dồn. Lộ ra những khoảng trời xanh thèm khát gần trăm ngày nay.

Thấy tiếng chân ông Quân, tất cả xuống đất. Ca, ống bương, bi-đông, khăn mạt chở sẵn. Ông Quân mở toang hai cánh cửa và rất nhanh nép sang một bên tránh cái mùi người, cái mùi hôi hôi của hơi người, quần áo giày dép chăn màn, nhà mét bị nhốt một đêm ào ra. Cái mùi đó, những người ở trong nhà quen mũi không thấy. Còn người ngoài không ai chịu được. Nó nặng. Có trọng lượng. Nó ùa ra như nước ùa khi cánh cửa đập mở. Nó nồng nặc cứ thẳng cửa tràn ra sân. Có lẽ vì thế mà đất sân ở đó đen sạm lại và tất cả những cây trẩu trồng đối diện với các cửa buồng đều còi cọc lá bị cháy táp không lớn được. Đó là một loại không khí có áp suất lớn, được cấu tạo khác hẳn với khí quyển của trái đất. Chả thế có những hôm ông cán bộ khác mở cửa buồng thay ông Quân, vừa mở tung cánh cửa, ông như bị đánh mạnh vào ngực, giật mình lùi lại, nép vội vào một bên làm cho cả bọn cười rộ lên.

Những người tù xếp hàng hai bước ra trước cái bút dứ dứ của ông Quân. Thiếu một người. Tù gọi ầm:

– Còn ai trong ấy ra mau lên.

Dự thắt vội dải rút quần, từ nhà mét chạy ra. Dự buồn đi đồng, đã định nh đến lúc đi làm, nhưng không chịu được. Thân tù thật khổ. Đi ỉa cũng vội. ỉa không hết cứt.

Ngoài sân anh em tù thoải mái hít thở không khí trong lành. Nhiều người không đánh răng, chỉ súc miệng. Hắn vẫn có thuốc đánh răng, nên già Đô cũng được đánh. Hắn phải bảo mãi già Đô mới chịu đấy. Già cười:

– Trâu bò nó có đánh răng đâu mà răng nó trắng thế. Các cụ nhà mình có đánh răng đâu mà các cụ vẫn sống lâu.

Mấy anh tập thể dục. Hắn cũng múa may vài đường cơ bản. Chỉ riêng Nguyễn Văn Phố, tù mười tám năm tập rất đều. Tập thể dục đều, tắm đều và làm việc cũng đều nữa.

Phố cũng là tổ trưởng như hắn. Anh em nghỉ, hắn nghỉ, Phố vẫn làm. Phố chỉ làm việc nhẹ thôi: Đánh luống, xới cỏ. Phố làm không vội vã, cứ nhát một đều đặn, chăm chỉ. Nắng tháng Sáu, anh em dạt cả vào gốc cây tránh nắng, Phố vẫn một mình với cái cuốc giữa nương, mồ hôi đầm đìa. Hắn bảo Phố.

– Anh nghỉ cho anh em nghỉ với chứ.

– Anh em cứ nghỉ đi, mình làm quen rồi, nghỉ nhiều lại chán.

Phố ở Phú Sơn về. Hắn ở QN lên. Đi làm với nhau nhưng không nói chuyện với nhau. Tù vốn giữ mình, giữ mồm, giữ miệng. Hắn vừa đưa nhát cuốc vừa lẩm bẩm một mình:

Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương

Hắn đang nghĩ về quá khứ, nghĩ về những áng thơ bất hủ dù không được in lại.

Bỗng Phố hỏi:

– Anh thích Nguyễn Nhược Pháp lắm à?

Hắn nhìn Phố, kính trọng một người tù có kiến thức. Phố cũng như trăm ngàn người tù khác. Quần áo xám bạc, da đen tai tái. Dòng chữ đỏ in trên ngực: AM xê-ri kỳ cựu. Hắn đáp:

– Vâng. Tôi thuộc Nguyễn Nhược Pháp từ nhỏ.

Phố buông cuốc:

– Tôi cũng thích Nguyễn Nhược Pháp. Tôi còn thích và kính trọng cụ Nguyễn Văn Vĩnh, thân sinh Nguyễn Nhược Pháp nữa.

Đến lượt hắn rời cuốc. Hắn không ngờ Phố lại còn biết cả cụ Nguyễn Vàn Vĩnh: “Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè, đến khi gió bấc thổi”. Hắn thuộc từ lúc còn bé tí. Bố hắn mua về cho hắn cả một quyển ấy, khi bố hắn sang phố. Còn những “chuột nhắt, mèo và gà trống” những “cá to cá bé nuốt nhau”…

Từ ấy hai người hay trò chuyện. Phố đọc cả thư con gái út đã mười tám tuổi cho hắn nghe. Phố có một cái gáo múc nước bằng tôn hoa nhà gửi cho. Đi làm về, dù xa dù gần, Phố cũng xách theo một gáo nước suối. Sáng hôm sau tập thể dục xong, Phố tắm. Đầu Phố ít tóc nhưng chải mượt. Nóng lạnh, hôm nào Phố cũng tập thể dục, cũng tắm. Có lẽ Phố bình thường hoá cuộc sống trong tù.

Anh em rửa mặt đánh răng, đi đái đã vãn. Số trực nhật đã xuống bếp lấy suất ăn sáng. Những cặp mắt hướng về nhà bếp. Trong tù thì chỉ có đợi ăn. Chia thức ăn sáng đơn giản hơn. Mì nấu muối, hay sắn, hay khoai lang. Cũng cân. Nhưng. chỉ một lần cân thôi. Sợ nhất khoai lang như hôm nay, vớ phải củ hà thì meo suốt sáng.

Tiếng kẻng gọi đi làm. Hắn cùng mọi người bị bọc, bước ra sân. Hắn trông thấy Hợp nhét con chuột nhắt vào bị. Con chuột cứng quèo, co lại trông càng béo, to hơn ngón tay cải, vàng hươm. Đúng là một con chuột cụ. Trưa nay Hợp sẽ có thứ sột sệt cải thiện rồi. Các toán xếp thành hàng hai, ngồi trên sân hướng về cổng trại dốc thoai thoải. Trông như những mô đất xám xếp thành luống gù gù kín cả sân trại. ở phía cổng, ông Quân nhìn tờ giấy gọi to:

– Phạm nhân Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Thế Hiển ở lại.

“Xà lim rồi”. Hắn ghé tai già Đô, nói nhỏ. Hai người bao giờ cũng xếp hàng đôi cạnh nhau. Già Đô vội lục bị, dúi cho hắn hai củ khoai lang. Đó là toàn bộ suất sáng của già. Già không ăn, già để phòng xa cho hắn. Rất nhanh, hắn nhét vào bị của hắn, sợ người khác trông thấy.

Một người tách hàng tù đứng ra. Đó là Hiển, một anh tù trẻ. Có tiếng quát: “Anh Tuấn đâu? ” Hắn nặng nề khoác bị đứng lên, đi ra khỏi hàng, về phía cổng. Hàng nghìn con mắt nhìn vào hắn.

Ông Quân tay cầm quyển sổ, tay cầm bút máy:

– Toán rau xanh! Toán rau xanh đứng lên.

Nón rách, quần áo xám, cúi mặt, phớt đời, lầm lì, khó hiểu đi hàng đôi chầm chậm trước mặt ông Quân. Ông cầm cái bút máy, cứ mỗi hàng tù đi qua, lại dứ một cái, miệng lẩm nhẩm đếm. Rồi ông ghi vào sổ.

ở trong buồng trực, nhiều ông công an áo xanh, công an áo vàng đang uống nước, hút thuốc cười nói. Khi người cuối cùng trong toán ra cổng trại, một ông công an vũ trang xách khẩu súng dựa vào tường, khoác lên vai đi theo. Và một ông công an áo vàng, đó là ông quản giáo phụ trách toán.

– Toán làm đồi! Lại một toán tù quần áo xám uể oải chậm chạp, tuyệt vọng đứng lên. Số tù đỏ, số tù đen in ở lưng, ở ngực áo, ở ống quần. ông Quân lại giơ bút dứ dứ. ông đếm từng đôi, miệng lẩm nhẩm. Trong phòng trực lại một ông quản giáo có súng lục, một ông công an vũ trang khoác súng trường đi ra.

– Toán may!

– Toán lò vôi!

– Toán lò gạch

Cứ thế sân trại rỗng. Phòng trực rỗng. Ông Quân đi vào cái phòng trực rỗng ấy, ngồi xuống ghế, đặt quyển sổ lên bàn làm tính cộng.

Hắn nhìn thấy anh tù trẻ và bước về phía anh ta:

– Tập trung hay án?

– Án. Anh bọp à?

Hắn gật đầu lo lắng:

– Không biết các ông ấy gọi lại làm gì.

Hiển không giấu được niềm vui:

– Em hôm nay hết án. Lo quá, chỉ sợ ông ấy cho thêm cái bọp. Khi nhận dược thư bố em, em mới yên tâm.

– Án mấy

– Đúng một năm, ăn đủ, ở đủ. Chẳng được giảm ngày nào. Người nhà em lên đón từ hôm qua.

Ông Quân đã cộng trừ xong, buông quyển sổ:

– Anh Hiển vào đây.

Hiển bước vào phòng. Một mình hắn đứng chờ. Lại càng lo lắng, càng buồn, càng nẫu ruột. Trên đầu hắn là cái bốt gác chính ngay ở cổng trại. Có tiếng lục cục ở trên đó. Tiếng dựng súng, tiếng kéo ghế, tiếng chân người. Một đầu mẩu thuốc đỏ lừ rơi xuống gần chân hắn.

Kìa Hiển đã ra. Hiển nhảy cbân sáo ra cổng sau khi vẫy hắn. Nụ cười sáng bừng. Đó là những bước chân dầu tiên của tự do. Cái vẫy tay mới tuyệt vời. Nó vừa là biểu hiện của tự do vừa là bản thân tự do. Không ai dám vẫy tay vui tươi một cách chân thành như vậy trước mặt ông quản giáo khi còn là một thằng tù. Những giây phút đầu tiên được trở lại làm người tự do mà hắn chứng kiến. Chỉ thoắt một cái đã thay đổi hoàn toàn dù vẫn mang trên người bộ quần áo xám có in số. Thật không thể hiểu được.

Nhưng hắn không kịp suy nghĩ nhiều. ông. Quân hiện ra ở cửa, ra hiệu cho hắn vào. Hắn nhìn thấy cái hòm gỗ của hắn vứt chỏng chơ dưới đất. Nắp hòm mở, bên trong màu gỗ trắng, bên ngoài màu sơn xám. Cái hòm đã gắn bó với hắn ba năm tù. Cái hòm trung thành không bỏ hắn suốt từ toán tăng gia sang toán rau xanh trại Q.N. Rồi theo lên V.Q với hắn. Toán làm đồi, toán văn nghệ, toán chăn nuôi…

Ông Quân ngồi xuống ghế chậm chạp. Lấy ra một tờ giấy đánh máy, đánh vần từng chữ. Hắn biết thế vì thấy miệng ông lẩm nhẩm. Rồi ông để trễ kính xuống sống mũi, ngước nhìn hắn qua phía trên mắt kính:

– Anh tên chi?

– Báo cáo ông. Tên tôi là Nguyễn Văn Tuấn.

– Ngày tháng năm sinh?

– Mồng ba tháng Bảy năm 1934 ạ.

– Quê quán?

Hắn nói quê quán.

– Về đem nội vụ ra đây. Anh được tự do.

Giọng ông hờ hững.