Chương 4: Trong thời gian của quyền uy và cô đơn – Câu hỏi giao du

Sau ngày đảo chánh, một số đông các sĩ quan thuộc Liên đoàn liên biệt văn phòng Tổng thống đều bị bắt giữ. Mấy sĩ quan tuỳ viên đều phải trả lời một số những câu hỏi như: “Có thấy những người đàn bà nào vào phòng riêng của Tổng thống Diệm?” Tổng thống Diệm có “giao du” với bà Nhu không?”. Đại uý Lê Công Hoàn, một sĩ quan tuỳ viên phục vụ Diệm 5 năm đã trả lời trên giấy tờ: “Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như vậy nếu có mà tôi bảo là không tôi xin chịu mất đầu’’. Vậy thì sự tương quan trong nếp sống gia đình thường nhật giữa vợ chồng ông Nhu và ông Diệm ra sao? Tổng thống Diệm ở trong một căn phòng riêng, ngủ trên tấm phản gỗ.

Mỗi tối, một ông già Ẩn chăng màn sẵn, sáng sớm lại tháo gỡ. ông Diệm thường dùng bữa ngay trong căn phòng này. Ông vẫn ăn một mình trong suốt 9 năm, trừ những buổi tiệc tùng dạ hội. Đối với gia đình ông Nhu thì Diệm sống một thế giới riêng. Rất ít khi ông Diệm ăn cơm chung với gia đình ông Nhu. Hoặc khi sang phòng ông Nhu dùng cơm thì ông Diệm dùng món ăn riêng của ông. Vì vậy trong dinh có hai đầu bếp. Một đầu bếp của vợ chồng ông Nhu. Một đầu bếp của ông Diệm.

Thông lệ, mỗi buổi sáng sĩ quan tuỳ viên đem vào phòng ông một xấp báo đủ loại. Ông vừa đọc vừa ăn điểm tâm.

Thỉnh thoảng có gì đặc biệt lắm ông mới sang phòng vợ chồng ông Nhu ngồi uống nước, nói chuyện lan man. Theo sĩ quan tuỳ viên Lê Công Hoàn cũng như Đại uý Bằng, ông già Ẩn, thì anh em ông Diệm và ông Nhu không mấy khi hàn huyên tâm sự. ông rất kính trọng và vâng lời Đức cha Thục theo quan niệm “Quyền huynh thế phụ”.

Trước khi qua Roma, dự Công đồng Vatican II, Đức cha Thục vào dinh ở lại vài ngày. Như thường lệ Đức cha Thục vào chào anh em Tổng thống.

Theo sĩ quan tuỳ viên Hoàn thì anh em Tổng thống Diệm rất giữ lễ với nhau chứ không suồng sã tự nhiên. Khi về dinh, Đức cha Thục thường dùng cơm với ông bà Nhu và mỗi lần như vậy, Tổng thống Diệm lại ghé qua phòng ông em nhân tiện đáp lễ ông anh. Đức cha Thục nói gì thì ông Diệm nghe điều đó. Tuy nhiên, mỗi lần không vừa ý ông Diệm lại chỉ thở dài, cau có và hết sức bẳn gắt với sĩ quan tuỳ viên. Cũng không mấy khi ông bà Nhu vào phòng riêng của Tổng thống Diệm trừ mấy đứa con trai của ông Nhu.

Căn phòng riêng của Tổng thống Diệm vừa là phòng ngủ, vừa là chỗ làm việc, bao giờ cũng có cận vệ gác ở ngoài cửa cùng với một sĩ quan tuỳ viên túc trực ngày đêm (thay phiên nhau như làm việc theo từng “ca”). Bất kỳ một ai thăm viếng về phía quân sự đều qua tay sĩ quan tuỳ viên (sự sắp xếp do Tham mưu biệt bộ). Sự thăm viếng về phía dân sự và ngoại giao đoàn đều do Nha Nghi lễ đảm trách.

Không kể Đỗ Thọ đã chết, 3 sĩ quan tuỳ viên còn sống sau cuộc đảo chính 1963 (trong đó có Đại uý Lê Châu Lộc) cùng với Đại uý Bằng hầu cận đều cho biết: “Họ không hề bị ông bà Nhu chi phối. Gặp ông bà ấy thì chào hỏi vậy thôi. Họ làm việc trực tiếp với Tổng thông Diệm và làm việc theo kiểu “người nhà ” phi nguyên tắc luật lệ. Vào phòng ông Tổng thống lúc nào cũng được và cửa phòng ông không bao giờ khoá mà chỉ khép. Người được coi là ngang ngược và hay gây gổ với bà Nhu là Đại uý Bằng. Thế giới của ông Tổng thống là thế giới tình cảm”.

Quy tụ quanh ông, phái cao cấp là ông Võ Văn Hải, gần Tổng thống là ông Bí thư Trần Sử rồi đến 4 sĩ quan tuỳ viên, ông già Ẩn, Đại uý Bằng và mấy người thân cận khác. Tìm hiểu cuộc sống riêng tư và tâm tình của một Tổng thống không gì bằng tìm hiểu ngay những người thân cận quanh ông trong nếp sống thường nhật.

Viết về giai đoạn lịch sử 1955-1963 không thể bỏ qua phần tìm hiểu con người Tổng thống Ngô Đình Diệm để từ đó soi sáng một phần tâm lý chính trị.

Tâm lý chính trị này là một phần căn bản giúp cho sử gia dễ dàng phân tách và dẫn giải các sự kiện lịch sử qua hướng đi của nó,qua sự chèo lái của nhà lãnh đạo.

Tổng thống Diệm thích làm thơ. Tất nhiên là thơ Đường luật, ông còn biết vẽ và nét vẽ rất đẹp. Bức vẽ cuối cùng của ông là ngôi Thánh đường, dự định sẽ xây cất ở khu Phượng Hoàng. ông đã có ý định không ra ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ 19 và sẽ lui về an dưỡng ở khu Phượng Hoàng.

Trước đó, đã có một dự án chỉnh trang toàn thể khu Cồn Hến tại Huế để làm nơi Tổng thống Diệm trở về vui thú điền viên. Khu này được coi là một trong mấy nơi thơ mộng nhất ở Huế, cách thôn Vỹ Dạ chỉ một con sông. Khi dự án được trình lên, Tổng thống không vừa ý và cho dẹp bỏ. Rồi tự tay ông phác hoạ khu Phượng Hoàng. Ngôi Thánh đường cũng tự tay ông vẽ. Tổng thống Diệm ưa thích đánh cờ tướng nhưng lại không phải là tay cao cờ.Nhiều lần, trong lúc cao hứng, ông cho gọi Đại úy Bằng và Ngô Đình Trác vào phòng riêng của ông bảo hai người đánh cờ để ông ngồi xem, ông có thể ngồi như vậy trong một, hai giờ liền.

Thú vui lớn nhất của ông là chụp ảnh và rửa hình. Thỉnh thoảng cao hứng ông lại đưa bọn con ông Nhu ra chụp một vài “pô” hay chụp mấy sĩ quan tuỳ viên. Tướng Lê Văn Kim được coi là “người bạn” của Tổng thống về phương diện chụp hình và rửa hình. Một lần vào năm 1961, vợ chồng bác sĩ Trần Kim Tuyến đang coi Ciné ở rạp Đại Nam thì có thuộc viên tìm đến, cho biết ”tổng thống điện thoại gọi bác sĩ vào dinh gấp”. Hai vợ chồng bỏ dở buổi Ciné trở vào dinh. Bà vợ ngồi dưới xe chờ chồng từ 10 giờ sáng tới gần 2 giờ chiều mới thấy chồng trở ra. Bác sĩ Tuyến được ông Tổng thống tiếp 4 giờ liền không ngoài việc máy ảnh và chụp hình. Vì Tổng thống mới mua một cái máy Canon, cho nên gọi ông Tuyến vào để chỉ cho cách sử dụng. Mỗi lần như thế ông Diệm rất vui, cởi mở.

Đặc biệt là Tổng thống Diệm không uống được rượu, chỉ cần uống một hớp nhỏ, mặt ông đã đỏ gay…Tuy vậy trong phòng ông cũng có một chai rượu nho, thỉnh thoảng ông nhấm nháp đôi chút và những lần như vậy giới hầu cận đều biết ngay là Tổng thống có chuyện vui. Đầu bếp trong dinh phải chế tạo riêng một loại sâm banh. Loại sâm banh này chỉ là nước ngọt cho vào chai và khi mở cũng nổ chát và sùi bọt như sâm banh thực. Khi tiệc lớn cùng với với các Đại sứ và quốc khách thì Tổng thống dùng sâm banh loại này. Tổng thống Diệm ăn uống không có giờ giấc nào cả. Bữa cơm chiều có thể là 8 giờ hoặc 10 giờ đêm…Khi gặp ai vui chuyện, ông Diệm có thể mạn đàm lan man cả 2,3 giờ liền. Ông hay dùng thứ Paté Chaud ở Bưu điện và ông cho là ngon tuyệt hạng.

Như trên đã viết ông Diệm rất kính trọng và vâng lời các anh. Ông lại luôn luôn sống xa mẹ. Sau khi từ chức Lại bộ Thượng thư triều đình Huế (1933) ông không về sống ở Phú Cam mà về ở trong một ngôi nhà của ông Ngô Đình Khôi tại Vĩnh Điện, Quảng Nam. Ngôi nhà đó chỉ có ôngDiệm và ông Bằng. ông Bằng lo việc cơm nước, quần áo và mọi sự cho ông Thượng thư, một vài tuần ông Diệm lại về Phú Cam một buổi, vài tháng lại vào Nam. Từ dạo đó, ông Diệm đã sống một cuộc đời khép kín, đi hay về không ai biết. Khi ông Ngô Đình Khôi bị giết năm 45, Đức cha Thục trở thành người có ảnh hưởng lớn nhất tới ông Diệm. Qua tập an-bum gia đình họ Ngô ta thấy đức cha Thục và ông Diệm hay cùng nhau chụp ảnh, hai người tỏ ra tương đắc.

Chúng tôi nêu lên sự kiện này như một sự kiện lịch sử để thấy rằng cái tình huynh đệ gia đình của một ông Tổng thống đã quan hệ đến cả vận mệnh quốc gia.

Năm 1963 là năm Ngân khánh của đức cha Thục. Theo truyền thống Thiên chúa giáo thì đây là một dịp trọng thể; đánh dấu thành công trongsự nghiệp của một đời tu hành. Lễ này thường do giáo dân đứng lên tổ chức để tỏ bày sự kính mến đối với bậc chăn chiên của họ. Giả dụ đức cha Ngô Đình Thục không phải là anh ruột của Tổng thống thì lễ này có tổ chức long trọng đến mấy cũng không có gì đáng nói, vì đó là sự thường tình trong nếp sống tôn giáo. Nhưng Đức cha Thục lại là anh ruột của một ông Tổng thống (chúng ta sẽ phân tích rõ ở chương Phật giáo 1963) nên đó là một vấn đề lớn.

Từ đầu tháng 1-1963, các giới chức địa phương và ở trung ương đã rộn dịp “góp công” vào việc tổ chức lễ Ngân khánh của Đức cha. Có một số địa phương tại miền Trung, Tỉnh trưởng lại đi thu góp tiền bạc để góp phần vào lễ Ngân khánh cho thêm phần long trọng. Rồi một Uỷ ban toàn quốc được thành lập đứng đầu là ông Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ, sau là bác sĩ Cao Xuân Cẩm cùng các uỷ viên gồm một số Bộ trưởng, Dân biểu, Linh mục Cao Văn Luận Viện trưởng Đại học Huế cũng được mời tham dự. Cha Luận lấy làm khó chịu song không thể khước từ nên phải nói:” Là một Linh mục sống trong địa phận của đức cha thì có bổn phận kính vâng Đức cha. Ông Bộ trưởng Giáo dục, Viện trưởng Đại học Sài Gòn cũng tham dự thì Viện trưởng Đại học Huế cũng xin về tham dự’’. Một mặt cha Luận biên thư cho ông Chủ tịch Quốc hội xin tham dự vào uỷ ban để cho vừa lòng đẹp ý người đến mời. Mặt khác, cha Luận đến gặp riêng ông Ngô Đình Cẩn vì cha Luận vẫn được coi là người có nhiều ảnh hưởng đối với gia đình họ Ngô (cũng như Linh mục Nguyễn Văn Thính, Linh mục Nguyễn Văn Lập, Linh mục Nguyễn Viết Khai). Cha Luận khuyên ông Cẩn nên tìm cách ngăn cản để làm thế nào lễ Ngân khánh tổ chức trong vòng thân mật và thu hẹp, vì từ ngày Đức cha Thục ra trọng nhậm giáo khu Huế đã gây nên nhiều ngộ nhận trong giới Phật giáo. Nếu lễ Ngân khánh tổ chức quá rầm rộ ngay tại cố đô Huế e rằng bất lợi. Ông Cẩn cho là phải và rất đồng ý với cha Luận, nhưng ông Cẩn cho biết: “Từ ngày Đức cha về đây, đức cha có coi tôi ra cái gì đâu. Tôi làm sao nói được xin nhờ cha vào Sài Gòn gặp Tổng thống để nói rõ sự lợi hại”. Hôm sau, cha Luận vào Sài gòn xin gặp ông Ngô Đình Nhu.

Ông Nhu cũng đồng ý như vậy và cho rằng không thể lẫn lộn tôn giáo với quốc gia, ông Nhu than thở với cha Luận là ông không biết làm thế nào vì nói thẳng sự thật sợ phật lòng Đức cha -bậc quyền huynh thế phụ đối với gia đình họ Ngô. Trước năm 1953 ông Nhu vẫn bị ngộ nhận làngười chống lại hàng giáo phẩm. ông Nhu phàn nàn với cha Luận đại ý:” Thân sinh tôi mất rồi thì chỉ còn đức cha là bậc quyền huynh thế phụ. Tôi không biết phải nói thế nào, Tổng thống thì cả nể Đức cha lắm. Từ ngày đức cha về Huế, ở đây tôi mới “rảnh rang”… Khi đức cha còn ở Vĩnh Long thì thứ bảy, chủ nhật nào bọn họ cũng rủ nhau xuống Vĩnh Long cả nội các, cả Quốc hội. Biết là phiền phức nhưng không làm thế nào được”. Ông Nhu lại một lần nữa nhờ riêng cha Luận nói rõ thiệt hơn với Tổng thống. Tất nhiên ông Nhu không dám nói thẳng với Tổng thống Diệm thì cha Luận sức nào dám nói thẳng sự hơn thiệt.

Mặc dầu lễ Ngân khánh đã được sửa soạn chu đáo nhưng không được như dự định, vì xảy ra vụ Phật giáo (ngày 8-5-1963).

Trước đó, Tổng thống Diệm cũng không dám bãi bỏ Uỷ ban toàn quốc như vậy. Song ông Chủ tịch Quốc hội là Chủ tịch Uỷ ban thì quả là điều “chướng mắt” khó coi, cho dù ông là giáo dân… Có lẽ vì vậy mà bác sĩ Cao Xuân Cẩm đứng ra làm Chủ tịch (?)… nhưng cũng không phá tan được sự ngộ nhận “dĩ công vi tư và lạm dụng ưu thế của Tổng thống Diệm”.

Hành hương Vĩnh Long

Tổng thống Diệm quá nặng tình nghĩa gia đình. Gia đình đó lại sống theo quan niệm “đóng cửa bảo nhau”. Cho nên, dù anh em mâu thuẫn bất hoà người bên ngoài cũng không mấy ai biết ngoại trừ những người thân cận sống lâu năm trong gia đình họ Ngô.

Trong 9 năm kháng chiến, Đức cha Thục không tỏ rõ một thái độ nào có thể minh chứng khuynh hướng chính trị của Đức cha. Khác hẳn với những giáo khu Phát Diệm, Bùi Chu, giáo khu Vĩnh Long luôn luôn đứng ngoài vòng cuộc chiến. Những gia đình quen biết Đức cha Thục như Phạm Ngọc Thảo, Kiều Công Cung đã đi theo kháng chiến ngay từ buổi đầu cho đến năm 1954. Linh mục Lư Vinh cũng như ông Sáu Nhân (tức Hoàng Xuân việt) đều được đức cha gởi vào ở tạm tại Nhà dòng Đồng công Thủ Đức. Cha Lư Vinh đã có lần tâm sự rất nhiều về đức cha Ngô Đình Thục và đều cho rằng đức cha trước năm 1954 rất khác đức cha sau năm 1954 và càng ngày càng bị vây hãm, bị lợi dụng, dấn mình quá sâu vào đời sống chính trị của các em.

Vào khoảng tháng 6-1960, nhân một buổi lễ trọng thể tại Vĩnh Long (buổi lễ thuộc phạm vi tôn giáo), thế nhưng từ sáng sớm đã có hàng trăm xe hơi nối đuôi nhau trên con đường “hành hương” về Vĩnh Long. Hầu hết là các Bộ trưởng, dân biểu, tướng tá, công chức cao cấp. Vì có hàng trăm xe của nhân viên chính quyền cho nên Bắc Mỹ Thuận bị kẹt, xe hàng, xe dân bị ứ lại dài cả hàng cây số và phải đợi cả hàng 2,3 giờ mới được khai thông. Một nhà báo Mỹ cũng bị kẹt trong đám xe đó. Khi trở về Sài Gòn ông ta tỏ ý phàn nàn và phê bình gay gắt Lương Khải Minh.

Nhà báo Mỹ thì lúc nào chẳng tìm cách “xì-căng-đan” Lương Khải Minh tìm cách biện minh cho nhà báo vui vẻ, bỏ qua sự phiền muộn. Lương Khải Minh cho ông Ngô Đình Nhu biết rõ sự thật. Nhu đỏ mặt tía tai đập tay vào bàn rồi gọi điện thoại cho ông Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ: “Làm cái gì mà kỳ vậy. Xuống đấy làm cái gì mà lố vậy. Tôi nhờ ông bảo bọn họ ngưng ngay cái trò đó đi”.

Ông Nhu không thích là chuyện của ông Nhu.

Con đường Sài Gòn – Vĩnh Long vẫn tấp nập khách công hầu. Ông Nhu thường phàn nàn với Lương Khải Minh ” Bây giờ Nội các và Quốc hội họp ở Vĩnh Long mà!”.

Như trên đã viết, Tổng thống Diệm bị chi phối mạnh mẽ bởi tình nghĩa gia đình thân thuộc,chữ Lễ đối với ông là một điều quan trọng, không thể thiếu. Tiếc rằng chữ Lễ trong tinh thần Nho giáo tuy tạo được sự thể thống về phương tiện quốc gia, song thực tại của xã hội giữa thế kỷ 20 đã làm cho chữ Lễ của Tổng thống trở nên những hình thức phù du và làm cho ông lạc lõng và càng cô đơn xa lạ trong thế kỷ mà nấc thang giá trị cũ chỉ còn như một áng mây chiều.

Một bọn nịnh thần lại luôn luôn bám vào chữ Lễ cũ của ông Diệm để che đậy những manh tâm… Chữ Lễ với giá trị cao cả của nó trong tình nghĩa của nếp sống Đông phương lại trở thành chiếc gậy thần của một số “phù thuỷ”, họ xúm nhau lại suy tôn và thần thánh hoá Ngô Tổng thống… ông Tổng thống càng thêm lạc lõng và chữ Lễ biến thành vùng ảo tưởng bao bọc lấy ông.

Tổng thống Diệm làm việc ngay trong phòng riêng. ông ngồi trên chiếc ghế bành trước một chiếc bàn tròn và ở đó ông phê chuẩn, khán ký, cũng như xem xét hồ sơ công việc và bàn xét quốc sự. Nếu không phải tiếp khách ngoại quốc hay các phái đoàn, ông làm việc trong phòng cả ngày. Thường thường ông mặc chiếc áo dài đen. Không bao giờ ông Tổng thống mặc đồ ngủ để tiếp khách dù đó là mấy ông thợ chụp hình. Khi phải ra phòng lớn tiếp khách thì theo thói quen ông cũng xốc lại cổ áo nắn lại chiếc Cravate rồi cầm lược chải đầu, gọi bồi lau lại đôi giầy…

Chữ Lễ trong tinh thần Nho gia

Những ngày đầu vào dinh Gia Long làm việc,Lương Khải Minh còn trẻ, lại quen tính ăn mặc luộm thuộm. Mấy lần vào phòng làm việc của ông Tổng thống, chỉ mặc áo cổ bẻ, cộc tay bỏ ngoài quần và đi dép quai da, mà không để ý đến sự khó chịu của ông Tổng thống nên cứ tiếp tục ăn mặc như vậy. Sau Tổng thống Diệm gọi thẳng bà Nhu phiền trách: “Thiếm phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng. Chú ấy ăn mặc lôi thôi mấy đứa nó bắt chước, mất cả thể thống. Thằng cha nó ăn mặc cái gì mà lôi thôi quá”. Từ đó Lương Khải Minh phải để sẵn trong văn phòng một bộ Complet, Cravate.

Nếu Tổng thống cho gọi là phải ăn mặc cho đầy đủ lệ bộ. Giầy mà không có giây thắt, ông Tổng thống cũng cho là một sự thất lễ. Một lần Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần vào dinh, mặc chiếc “Veste” mới may, xẻ phía sau lưng theo mode mới, liền bị Tổng thống nhìn một lúc lâu rồi khen “ông Bộ trưởng mua chiếc áo xẻ lưng đẹp quá hỉ?”. ÔngTổng thống cho rằng làm lớn ăn mặc như thế không hợp với thể thống. Từ đó, Nguyễn Đình Thuần biết ý phải cố ăn mặc làm sao cho vừa lòng Tổng thống.

Cũng vì một chữ thể thống mà một sĩ quan đã thắng được vụ kiện. Quan toà là ông Tổng thống, bà Nhu là nguyên cáo. Khi Quốc vương và Hoàng hậu Thái Lan qua thăm Sài Gòn thì bà Nhu đóng vai “tiếp viên của Quốc gia” (Hotesse) để ngênh đón Hoàng hậu Thái Lan về dinh Độc Lập chào Tổng thống theo nghi lễ, rồi trở về dinh Gia Long nghỉ. Tổng thống cũng đến dinh Gia Long để đáp lễ, cùng đi theo có bà Nhu. Lúc trở ra, bà Nhu đi sau Tổng thống. Viên sĩ quan hậu cần cản lại và nói “Bà không được đi cùng. Theo lễ nghi bà phải đi sau 5 phút.”. Bà Nhu nổi giận phản đối. Viên sĩ quan dẫn chứng theo “sách”: “Bà đâu có phải là vợ Tổng thống mà được phép trở về dinh cùng một lúc. Tôi cử theo lễ nghi của ông Hoàng Thúc Đàm. Tổng thống phải về dinh trước,năm phút sau bà mới được ra về”. Bà Nhu nổi giận mà đành chịu.

Nhưng sau đó bà về mách ông Nhu và sang tận phòng Tổng thống kiện. Tổng thống sai gọi viên sĩ quan hầu cận (Đại uý Bằng) và “đối chất”. Bà Nhu nói theo lẽ của bà Nhu.

Viên sĩ quan nói theo lẽ của viên sĩ quan và nhấn mạnh là, như thế để giữ thể thống Quốc gia. Ông Diệm không nói một câu rồi cho cả hai người ra về. Bà Nhu rất hậm hực về thái độ lặng thinh của ông anh Tổng thống. Sau buổi chiều ông qua phòng ông bà Nhu và tuyên án “Nó nói đúng. Tính nó ngang ngược như rứa, thôi bỏ qua”.

Người em của bà Nhu là Trần Văn Khiêm cũng đã gây nên nhiều sự phiền phức cho Tổng thống. Anh ta ưa phách lối, làm le và doạ nạt nhiều người. Có lần (tháng 10-1963) anh ta doạ ném lựu đạn giết chết cả nhà bác sĩ Trần Kim Tuyến. Sự lạm dụng và phách lối của Trần Văn Khiêm đến tai Tổng thống Diệm, ông cũng không biết làm thế nào hơn là ra lệnh cho sĩ quan hầu cận mở cuộc điều tra riêng. Việc đến tai bà Nhu. Bà tìm mọi cách che chở cho em rồi tìm cơ hội “mách” với Tổng thống về những “lạm dụng” của đám người thân bên cạnh ông ta. Do đó, trong 9 năm, ông Diệm luôn phải xử những “vụ án” ngay trong nội bộ của dinh.

Nhiều người thân của Tổng thống Diệm cho rằng, đó là nỗi khổ tâm mà ông không thể nói ra và mỗi lần như vậy ông lại càng thêm bẳn gắt. Ví dụ: Một lần đám con ông bà Nhu lấy bút vẽ bậy bạ lên tường dinh phía phòng Tổng thống, sĩ quan hầu cận đe nẹt thì đám trẻ lại nặng lời với họ rồi về mách mẹ. Bà Nhu, bênh con lại nặng lời và đổ thừa cho đám cận vệ vẽ bậy. Lời qua tiếng lại bà Nhu lại vào thưa kiện với Tổng thống vì viên sĩ quan đã dám hỗn xược với bà. ông Tổng thống lại mất công phân xử. Thường thường bao giờ ông cũng chỉ đỏ mặt, yên lặng, quay đi và lắng nghe hai bên trình bày, không nói một câu…Nếu cùng lắm thì chỉ phán quyết: “Thôi bỏ qua”.

Một lần khác, vào đầu năm 1958 khi chế độ Ngô Đình Diệm đang vào thời kỳ cực thịnh, một buổi tối bà Nhu bận đồ ngủ, mặc áo choàng vào phòng ông Tổng thống để kiện cáo một vài chuyện lặt vặt, ông già Ân khép cửa đi ra… Bỗng Tổng thống quát tháo rầm rĩ, bấm chuông gọi ông Ân và ông Bằng mắng vu vơ trước mặt bà Nhu. Từ buổi đó, biết ý ông Tổng thống nên mỗi khi bà Nhu vào phòng Tổng thống thì ông Ân hay ông Bằng phải có mặt hoặc sĩ quan tuỳ viên. Nếu không thì y như là có sự la lối. Thường thường nói chuyện với bà Nhu hoặc bất kỳ một người đàn bà nào khác, mặt ông Diệm đều đỏ gay, mắt nhìn đi chỗ khác và trả lời đứt quãng, nhát gừng.

Mỗi lần bà Nhu vào kiện cáo chuyện gì, ông yên lặng nghe. Khi bà ta đi ra cửa, ông lại lẩm bẩm nói nhát gừng: “Chuyện đàn bà con nít như rứa… thôi bỏ qua”.

Một lần khác bà Nhu vào kiện cáo chuyện gia đình dòng họ, Tổng thống Diệm vẫn yên lặng nghe, rồi nói: “Thím cứ về rồi tôi tính cho”, bà Nhu không chịu lại la lớn tiếng. Bất thần ông Diệm cầm chiếc gạt tàn thuốc lá ném về phía em dâu. Có lẽ ông ném vờ vậy thôi. Chiếc gạt tàn văng vào tường vỡ tung, bà Nhu mở cửa chuồn lẹ.

Những người thân cận chung quanh Tổng thống Diệm đa số đều phục vụ cho ông từ nhiều năm trước thời kỳ 1945. Riêng viên sĩ quan tuỳ viên thì do Nha Nhân viên Bộ Quốc phòng tuyển chọn và đề bạt. Trước năm 1960, mỗi tuỳ viên phục vụ trong thời gian 2 năm. Nhưng sau, thời hạn bất kể. Thông lệ mỗi năm vào lễ Giáng sinh ông ra lệnh cho gọi tất cả sĩ quan tuỳ viên cũ trở về dinh gặp ông và cho mỗi người một số tiền 2000$.

Đối với Tổng thống Diệm số tiền này là to quá. Rút tiền mặt chi cho ai đồng nào, ông thường đếm đi đếm lại rất cẩn thận.

Về cách chọn người của Tổng thống Diệm thì khó ai có thể lường trước được. Bác sĩ Tuyến xác nhận rằng: “80% các Tỉnh trưởng đều do ông Tổng thống chọn”. Khoảng năm 1958, Tỉnh trưởng Kiến Hoà lúc bấy giờ là một Thiếu tá người quen thân của Trung tá Phạm Ngọc Thảo và cũng là chỗ quen thân bác sĩ Tuyến. Một hôm, đương sự vào phòng Tổng thống trình bày công việc, bất thần Tổng thống hỏi: “Anh có biết sĩ quan nào quen việc hành chánh không chỉ cho hai người”.

Tất nhiên đương sự không dám hỏi thẳng Tổng thống dùng hai sĩ quan ấy vào việc gì, liền đáp: “Thưa có, hiện nay ở sở của con có hai sĩ quan con đang chờ lệnh bổ dụng mà con chưa biết đặt ở đâu. Hai sĩ quan này đều làm quận trưởng bên Gia Định vừa mới bị thay thế”. Tổng thống gật đầu: “Được rồi. Tên?”. Hai sĩ quan này là Đại uý Lê Minh và Trung uý Q. Rồi ông Diệm lấy giấy ghi tên hai người.

Theo thông lệ những việc nào có tính cách bí mật và tránh sự nhòm ngó của người xung quanh Tổng thống đều viết bằng chữ Hán. Cũng như người bồi phòng của Diệm, vì lo công việc hàng ngày trong phòng riêng của ông nên phải chọn một anh không biết chữ như bồi Bẩy Thạnh.

Khoảng 3 ngày sau, ông Đổng lý Quách Tòng Đức báo cho bác sĩ Tuyến biết là hai sĩ quan kể trên đã có nghị định bổ nhậm Tỉnh trưởng và Phó tỉnh trưởng Nội An, Kiến Hoà. Đại uý Lê Minh được lên Thiếu tá, Trung uý Q được lên Đại uý, Tuyến nghe tin này thì choáng váng cả người vì Thiếu tá Thảo bị thay thế là chỗ thân của ông. Riêng Lê Minh lại không muốn đi làm Tỉnh trưởng Kiến Hoà. Sau khi bị thay thế Quận trưởng, Lê Minh đã chán hành chánh chỉ muốn có một chỗ tốt tại Sài Gòn. Bỗng đâu chỉ vì một lời giới thiệu vu vơ, Lê Minh trở thành Tỉnh trưởng rồi sau này lại bị ông Tổng thống nổi giận cắt chức Tỉnh trưởng.

Trong 9 năm có rất nhiều trường hợp “trúng số độc đắc” như vậy. Một thí dụ khác vào khoảng năm 1962, lúc ấy Bộ trưởng bộ Tư pháp là ông Nguyễn Văn Lượng theo Lương Khải Minh, khi ông Bộ trưởng, bộ Tư pháp vào trình công việc của Bộ, rồi cũng bất thần bị ông Tổng thống hỏi: “Bên Tư pháp có ông thẩm phán nào biết việc hành chánh, quản trì nhân viên, ông Bộ trưởng tìm cho tôi hai người”. Bộ Tư pháp lúc ấy cũng có hai thẩm phán “ngồi chơi xơi nước” trong khi chờ lệnh bổ nhậm mới. Đó là ông Trần Thiện Đức, nguyên Biện lý ở Toà sơ thẩm Mỹ Tho vì có sự bất hoà chống đối viên Tỉnh trưởng địa phương nên tạm thời được rút về Bộ. Còn ông Khánh thuộc Toà Nha Trang vì vụ lỗi lầm gì đó nên bị thay thế và đang nằm đợi lệnh ở Toà thượng thẩm Huế.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Văn Lượng đưa tên hai ông này trình lên Tổng thống Diệm, ông Tổng thống lại tự tay ghi chép. Ít hôm sau, có Nghị định bổ nhiệm ông Khánh làm đại biểu Chính phủ tại Cao nguyên Trung phần, ông Trần Thiện Đức làm Tổng đoàn trưởng Công dân vụ mà cả hai đương sự cũng không được thông báo trước.

Trước khi có Nghị định bổ nhiệm, họ nhận được lệnh vào trình diện cũng chỉ có mục đích để Tổng thống xem tướng. Nhiều trường hợp chỉ vì “xấu tướng” đã không được Tổng thống bổ nhiệm.

Riêng ông Đức vì sự giới thiệu tình cờ của ông Bộ trưởng Tư pháp mà trở thành Tổng đoàn trưởng Công dân vụ. Sau đảo chính 1963 ông bị điều tra “lên xuống” xem có phải là đảng viên Đảng Cần lao hay không, có chạy tiền để vào chức vụ ấy không.

Vụ xem tướng người của Tổng thống Diệm cũng có nhiều cái rất lạ. Như ông X, Tổng thống Diệm lắc đầu: “mặt thịt, vai u nó làm được cái gì”. Như ông Y, Tổng thống Diệm thấy ăn mặc đường hoàng, nói năng dõng dạc, đi đứng trang nghiêm, ông gật đầu: “Thằng đó khá”. Anh nào nói không ra hơi ngôn bất xuất khẩu, ông lắc đầu ngay… Nhưng anh nào “nói leo” chưa hỏi đã nói cũng khó lòng lọt vào mắt xanh của ông. Điều tối kỵ đối với ông là anh nào có vợ hai, bị báo cáo là bài bạc, nghiện hút. Ông ghê sợ sự nghiện hút và kẻ nào vợ nọ con kia. Thiếu tá Trần Ngọc Châu được ông thương vì có tài nói và thuyết trình rất lưu loát. Tướng Đôn được Tổng thống Diệm sủng ái vì được coi là quân nhân có tác phong, đi đứng và chào lính trang nghiêm. Phó Tổng thống Thơ dù lùn và lé nhưng Tổng thống Diệm coi như em vì “Cụ Phó chịu khó làm việc. Cụ Bà hiền đức”.

Làm lớn

Dù thế nào thì Tổng thống Diệm cũng vẫn là một ông quan trong tinh thần “phụ mẫu chi dân” và một ông quan trong giấc mộng kinh bang tế thế và được lập thành bởi tình thần nho gia “Dân chi sở ố, ố chi. Dân chi sở hiếu, hiếu chi”.. (Dân ghét cái gì, mình ghét cái đó. Dân thích cái gì, mình thích cái đó. Sách Đại học). Sở dĩ phải dẫn sách Đại học ở đây vì ông Tổng thống thuộc lòng sách này và thường đem từng câu ra giảng cho thuộc cấp. Khi trở thành Tổng thống thì ông quan ấy trở nên một vì Hoàng đế với tiêu chuẩn “Thừa thiên hành đạo”. Ông cai trị dân với một “thiên mạng” của nho gia. Cho nên ta thường thấy ông luôn nhắc đến chữ “Thành”. Chữ Thành lấy ở sách trung dung.

Nhưng từ giữa Thế kỷ 20 và trong thực tại ở miền Nam sau 1954, tuy tạo được quyền uy tối thượng, tuy giữ được thể thống quốc gia nhưng ông Tổng thống lại trở nên một pho tượng trong vườn ngự uyển. Trong khu vườn đó, ông tưởng ai cũng làm như ông và sống như ông sống. Ông lại qúa tin nơi mình với mặc cảm đầy uy quyền và ông ghen với uy quyền đó (i alouse de son pouvoir).

Ông làm việc theo lề lối của một vị đường quan và quần thần chủ nghĩa. Vì vậy mà công việc được giải quyết theo khẩu lệnh và quần thần cứ y như thế mà làm, không mấy ai dám ho he phản đối. Theo Lương Khải Minh làm việc trực tiếp với Tổng thống Diệm và ông Nhu trong 9 năm thì có thể nói nếu so với đức cha Ngô Đình Thục hay ông Cẩn, Tổng thống Diệm và ông Nhu đều biết ai hèn hạ ai tâng bốc, nhưng biết mà không nói, biết mà vẫn dùng. Sĩ quan tuỳ viên Lê Công Hoàn kể lại rằng: Có một lần vào năm 1962 ở dinhTổng thống trên Đà Lạt, ông Tổng thống cần đi gấp mà trong phòng lại không có đôi giầy. ông la bồi. Lúc ấy bồi lại đi đâu vắng. Sĩ quan tuỳ viên vẫn đứng yên vì lấy giầy cho Tổng thống không phải là công việc của anh những việc như thế để bồi nó làm. Tổng thống đã dặn vậy).

Thấy Tổng thống la bồi biểu đi tìm giày, một ông Bộ trưởng chạy đi tìm và mang giầy lại. ôngTổng thống mặt đỏ gay, nhăn nhó và gạt đi, nói một cách bực tức: “hừ hừ…để bồi nó làm”. Ông Bộ trưởng tái mặt vì ngượng và sợ. Sĩ quan tùy viên nhìn ông Bộ trưởng mỉm cười. Nhiều ông lớn tỏ ra hèn hạ một cách công khai đã bị ông Tổng thống mắng thẳng vào mặt. Riêng ông Nhu, một lần thấy một ông Đại uý mặc quân phục đeo lon, đẩy xe cho ông Ngô Đình Luyện dạo qua dinh (vì ôngLuyện đau chân nên phải ngồi xe có tay đẩy), ông Nhu cười “ruồi” chỉ cho một sĩ quan hầu cận của Tổng thống Diệm và nói: “Thằng cha sao nó lố như rứa”.

Còn bao cảnh hèn hạ tuyệt vời khác như ông Đ cúi đầu tháo dây giày cho cậu Luyện, ông L kia ăn dở chén măng cua ăn thừa của Đức Cha một cách hoan hỉ. Lỗi lầm tai hại của chế độ Ngô Đình Diệm chính là ở điểm đã mặc nhiên chấp nhận những cái hèn hạ như vậy của cộng sự viên qua cái bản chất hèn của con người họ. Mà ở những con người ấy lại tiêu biểu cho quốc gia ở một ngành này hay ở một địa phương khác.

Người ta thường cho rằng, trong 9 năm Tổng thống Diệm chỉ “làm vì” và ông Nhu bao thầu mọi việc. Bác sĩ Tuyến cho rằng “như thế rất sai sự thực” ông Nhu chỉ là một thứ bổ xung cần thiết cho ông Diệm. Kể từ năm 1962, và nhất là khi thành lập ấp chiến lược thì công việc mới bắt đầu dồn lại phía ông Nhu. Nó dồn lại một cách mặc nhiên và ông Nhu cũng mặc nhiên chấp nhận. Nhưng Tổng thống Diệm vẫn giữ quyền của ông mà không ai chia sẻ được, kể cả ông Nhu. Nhiều sự bổ nhiệm trong quân đội cũng như hành chánh khi đã có nghị định, bấy giờ ông Nhu mới biết. Nếu muốn đặt để ai ở một chức vụ quan trọng, ông Nhu chỉ đánh tiếng bằng những lời khen: “ông ấy, có khả năng, có tài về lĩnh vực ấy”. Khi chú Nhu đã nói như vậy thì ông Tổng thống tin ngay và chắc chắn đương sự được bổ nhiệm.

Nhưng nếu mọi việc không có ý của ông Nhu thì ông Tổng thống cũng không yên tâm. Như việc thảo diễn văn chẳng hạn. Những năm đầu thì do ông Trần Chánh Thành viết, sau này do ông Lương Danh Môn (Tổng thư ký Bộ Quốc phòng) hoặc khi nào rảnh thì do ông Võ Văn Hải. ông Hải đảm trách phần vụ viết diễn văn bằng Anh ngữ. Nhưng ai viết cũng đều phải qua tay ông Nhu đọc lại. Diễn văn quan trọng thì tự tay ông Nhu viết. Nhưng dù ai viết và ông Nhu đã xem lại Tổng thống thế nào cũng đọc kỹ và sửa một vài chữ mới bằng lòng. Một lần theo lời viên sĩ quan hầu cận (Đại uý Bằng): “ông Nhu đưa bài diễn văn qua phòng Tổng thống, ông đọc rồi lắc đầu quầy quậy”.

Về diễn văn phải viết bằng tiếng Pháp thì do ông Nhu viết. Về Anh văn do ông Võ Văn Hải hoặc Trương Bửu Điện và sau này là Tôn Thất Thiện viết. Dù vẫn phục ông Nhu về tài viết tiếng Pháp văn nhưng thế nào ông Diệm cũng đọc lại rồi giở từ điển ra coi, cân nhắc một vài “từ” cho chỉnh. Về Anh văn cũng thế, mặc dầu Tổng thống Diệm không có sở trường về Anh văn. Một lần viếng thăm một quân đoàn, ông tướng Tư lệnh của quân đoàn này đọc mấy lời: “Kính dâng Ngô Đình Diệm”…ông Diệm nhăn trán quắc mắt vì trong đó chữ Hán dùng sai. Buổi tối, trở về phòng trong lúc vui chuyện, ông bảo sĩ quan hầu cận: “Cái thằng nớ nó người Hoàng tộc sao mà nó ngu như rứa. Nó học hành đến đâu hè, ông thân sinh của nó xưa nghe giỏi chữ Hán…” Rồi ông nhớ mãi. Vào tháng 10-1963, có sự đề nghị của ông tướng này tham chánh, ông Tổng thống lại nhắc đến bài “Kính dâng” xưa kia và nói giận dữ. “Chữ, nó còn không thông thì nó còn biết cái mô tê chi”.

Như trên đã viết, ông Nhu là một thứ bổ sung cần thiết cho ông Tổng thống. Trong bất cứ một vấn đề quan hệ nào nếu không có ý kiến của ông em thì ông anh không an tâm.

Nhưng thế giới của ông anh là của riêng ông anh, ông em không thể nào “xía” vô. Hai thế giới cách xa nhau, màu sắc và bản chất cũng khác nhau. Căn phòng làm việc của ông anh Tổng thống thì hoàn toàn thiếu trật tự, giấy tờ hồ sơ ông để lung tung. ông làm việc không theo giờ ấn định, không có lịch trình. Theo Đại tá Đỗ Mậu, khi vào trình Tổng thống về việc A… nhưng chỉ ít phút sau ông hỏi qua việc B rồi lan man qua phạm vi tử vi tướng số. Ông thích hàn huyên tâm sự, thích nói chuyện đời xưa…Trái lại văn phòng làm việc của ông Nhu rất trật tự. Hằng ngày ông làm việc theo giờ giấc và đúng lịch trình. Ông làm việc tại văn phòng, phía sau bàn giấy là tủ sách.Hồ sơ để theo thứ tự và xếp từng loại. Sự ngăn nắp này cũng dễ hiểu vì ông là một tổng quản thủ thư viện và văn khố…Nhưng Tổng thống Diệm gặp đâu làm đó lại luôn luôn giải quyết công việc bằng khẩu lệnh. Theo Lương Khải Minh người ta thường cho rằng ông Nhu nói gì ông Tổng thống nghe nấy, điều đó không đúng…ông Tổng thống chỉ nghe ông Nhu về những vấn đề quan trọng thuộc lãnh vực chiến thuật và chiến lược. Ngoài ra, những vấn đề khác nhất là những vấn đề thuộc lãnh vực hành chánh và dinh điền, ông Nhu đôi khi phải nhờ đệ tam nhân can thiệp với ông Tổng thống. Đệ tam nhân đó có thể là ông Nguyễn Đình Thuần, vừa là người của ông Tổng thống và là người được lòng ông Nhu. Trường hợp bổ nhậm Nguyễn Xuân Khương là điển hình. Tuy ông được bác sĩ Tuyến giới thiệu với ông Nhu khi ông Nhu muốn kiếm một người làm Tổng Giám Đốc điền địa, có khả năng chuyên môn để phụ giúp Bộ trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa.

Trong giới kỹ thuật, Lương Khải Minh thấy ông Khương là kỹ sư chuyên về địa chánh, ăn nói lại lưu loát Nhờ đó ông Khương được cất nhắc. Vì đang chú trọng đến công tác chỉnh trang lãnh thổ nên Khương luôn luôn có dịp ở bên Tổng thống. Ông Tổng thống lại là người ưa thích xem hoạ đồ,nói chuyện đất đai lãnh thổ. ông Khương lại là người lanh chân, lẹ miệng nên được lòng Tổng thống. Từ khi địa vị đã vững vàng, theo sát chân Tổng thống, ông Thương lờ luôn cả ông Nhu, mọi việc ông Khương nhất nhất đều trình thẳng lên Tổng thống. Bởi vì nếu đã được lòng Tổng thống dầu rằng ông Nhu có ghét cũng không sao.

Tháng 6- 1963, Nguyễn Xuân Khương được cử thay thế Hồ Đắc Khương làm Đại biểu Chính phủ tại Trung Nguyên. ông Nhu chỉ được biết ông Tổng thống đã quyết định bổ nhiệm ông Khương, ông Nhu đành bóp đầu bóp trán: “Hắn thì biết gì về chánh trị mà cử ra đó” nhưng ông anh đã quyết định thì ông em đành phải nghe theo rồi tìm đệ tam nhân “nắm” Nguyễn Xuân Khương.

Một thí dụ khác, ông Võ Văn Hải và ông Nhu hai bên không ưa nhau, ông Hải có thành kiến và ghét luôn những người làm việc với ông Nhu, ông Hải công khai công kích bà Nhu.Thế nhưng, hai người vẫn làm việc song song đối đầu nhau. Có những việc mật, chỉ ông Hải biết mà ông Nhu không hay, cho dù không ưa ông Hải, ông Nhu cũng chả làm được gì hơn. Trong gia đình đó kẻ làm em phải chịu lép vế. Theo Lương Khải Minh nhiều vấn đề ông Nhu rất không đồng ý với ông anh và nhiều lần công kích, nhưng khi gặp Tổngthống Diệm thì ông Nhu lại ngồi lặng thinh không dám nói. Cũng như ông Cẩn ở miền Trung,ông không ưa gì bà Nhu, thường nặng lời công kích, mạt sát, nhưng khi gặp ông anh trai và bà chị dâu thì ông Cẩn lại lặng thinh.

Tuy cùng ở trong dinh, sống chết có nhau trong 9 năm, ông Nhu rất ngại gặp ông Tổng thống. Theo sĩ quan tuỳ viên Lê Công Hoàn, từ khi vào dinh làm việc, từ năm 1958 đến năm 1963, Hoàn chỉ đến chào ông Nhu lần thứ nhất khi nhận việc theo sự chỉ dẫn của Tham mưu Biệt bộ.

Lần ấy gặp ông Nhu, ông nhìn Hoàn mỉm cười, nói mấy câu ngắn ngủi: “Cám ơn, ở đây mà làm việc”. Ông Nhu hầu như không để ý đến thế giới của ông anh kể cả cộng sự viên thân tín của ông anh.

Trường hợp Lê Công Hoàn được gọi về dinh cũng đầy bất ngờ như bao nhiêu trường hợp khác. Anh đang phục vụ trong ngành Công binh tại Pleiku thì có công điện gọi về trình diện tướng Đính tại Ban Mê Thuật. Gặp Hoàn tướng Đính nói: “Anh về Sài Gòn trình diện Tổng thống”. Rồi ngay đêm đó, ông Đính cho một chiếc xe Jeep thật tốt có người hộ tống Hoàn đi suốt đêm từ Ban MêThuật về tới Sài Gòn, Lê Công Hoàn rất hồi hộp không biết số phận hên sui ra sao. Sáng hôm sau, dù qua một đêm hành trình mệt mỏi, để vào gặp Tổng thống Hoàn cũng phải quần áo chỉnh tề ngay ngắn… Nhưng gặp ai và ai đưa vào trình diện Tổng thống? Lúc ấy Lê Công Hoàn còn là Trung uý, nên Hoàn đến trình diện Bộ TổngTham mưu, ở đây lắc đầu không biết, Hoàn đến Bộ Quốc phòng, ở đây bảo qua lữ đoàn Liên biệt phòng vệ. Bộ Tư lệnh lữ đoàn cũng không biết và bảo qua Tham mưu Biệt bộ gặp Trung tá Cao Văn Viên. Bấy giờ mới tìm đúng chỗ. Sau đó Hoàn được Trung tá Viên đưa vào trình diện Tổng thống Diệm. Trước hết, Tổng thống lừ mắt nhìn Hoàn từ đầu đến chân, ông nhìn thật lâu có lẽ để xem tướng Hoàn, dùng người ông Diệm có thói quen bắt tướng. Một lát ông gật đầu, hỏi qua Hoàn về gia đình. ông hỏi Hoàn: “Đeo kiếng cận như vậy có bắn được không? ” Lê Công Hoàn đáp: “Dạ thưa, gần thì con bắn được”. ông Diệm lại hỏi: “Trúng không? ” Hoàn thưa: “Dạ bắn được thôi, con không dám nói là trúng”, ông Tổng thống gật đầu cười.

Năm năm sống cạnh Tổng thống Diệm, sĩ quan tuỳ viên Lê Công Hoàn cho biết rằng: Hoàn cũng chẳng có quan niệm nào về Đảng Cần lao, đã được ông Tổng thống tín nhiệm yêu thương thì khỏi cần đảng phái.

Mà ông Tổng thống cũng rất ít nhắc đến Đảng. “Việc đảng phái đã có chú Nhu lo”. Tổng thống thường nói vậy. Người không hề tham gia đảng phái chính trị nhưng Đại tướng Lê Văn Ty rất được ông Tổng thống tín nhiệm, thương yêu trong sự tương kính. Dù có chân trong Đảng hay được ông Nhu ông Cẩn tín nhiệm, nhưng Tổng thống không ưa gì thì đương sự cũng khó ngóc đầu lên được.

Ông Nhu làm việc và tiếp khách đều theo lịch trình đã ấn định sẵn. Kể cả lúc đi săn cũng thể theo chương trình. Một vài năm ông lại về Huế 10 ngày và đọc sách. Đọc sách cũng có chương trình. Bằng ấy ngày nghỉ sẽ đọc bằng ấy quyển. Mỗi lần đều có sổ tay ghi chép. ông Tổng thống thì không. Sĩ quan tuỳ viên Lê Công Hoàn cho biết: Mỗi lần ông Tổng thống đi kinh lý ở đâu,văn phòng đều có định trước chương trình. Ví dụ ông lên Đà Lạt thì 9 giờ thăm trường Võ bị, 14 giờ đi thăm ấp chiến lược… Rồi sẽ tiếp những ai. Tuỳ viên phải học thuộc lòng. Tổng thống hỏi nói ngay không bao giờ được lấy giấy ra coi. Tuy nhiên chẳng bao giờ Tổng thống theo chương trình, ngoại trừ trường hợp có các ông Đại sứ tháp tùng.

Việc tiếp khách cũng thế, theo nguyên tắc Tham mưu Biệt bộ sắp đặt để Tổng thống tiếp ai, giờ nào, ngày nào. Nguyên tắc ấy thực tế không bao giờ được tôn trọng. Viên chức văn võ đến ngồi chờ trong phòng khách rồi tuỳ theo chức vụ cấp bậc và công việc gấp hay không gấp, sĩ quan tuỳ viên sẽ mời từng người vào “hầu’. Lúc ấy ông sĩ quan tuỳ viên trở nên quan trọng, có thể nói, tuỳ viên “khoái ai” thì đưa người đó vào trước…Không có cảm tình thì dù ở cấp bậc cao cấp tuỳ viên vẫn có thể cho ngồi chờ hai, ba giờ. Có người Tổng thống tiếp năm, ba phút, có người được tiếp lâu hai, ba giờ. Phía tướng lãnh người tương đầu hợp ý với Tổng thống Diệm là Đại tướng Tỵ. Mỗi lần Đại tướng Tỵ vào dinh gặp Tổng thống sẽ lâu tới một, hai giờ. Mọi người đều xác nhận, tuy tướng Tỵ không có tài thao lược nhưng lại rất tốt bụng, tướng Tỵ không khúm núm, không quị luỵ, tướng Ty đề cử ai thì xem như chắc ăn 100%. Chính tướng Tỵ đích thân tuyển chọn Trung tá Sang lái máy bay riêng cho ông Diệm. Về nội bộ Quân đội, tướng Tỵ nói điều gì, Tổng thống Diệm tin điều đó. Tuy nhiên, tướng Tỵ đối với các tướng tá khác đều coi là đàn em, nên ông không gièm pha ai. Về việc tưởng thưởng Bảo quốc huân chương, Tổng thống “tiết kiệm” dè dặt. ông Tổng thống coi thứ Huân chương này như nấc thang giá trì cao nhất tiêu biểu cho chiến công và sự nghiệp của người được thụ lãnh. Nhưng tướng Tỵ đề nghị cho ai thì người ấy được ngay. Ngoài tướng Tỵ ra, khó lòng ai có thể đề nghị cho người này người kia được Bảo quốc huân chương.

Thí dụ trường hợp của Trung tá Khôi khi được cử làm Tuỳ viên quân sự tại nước ngoài. ông Khôi là một sĩ quan tham mưu, nên huy chương không có nhiều. Ra ngoại quốc là sĩ quan tuỳ viên như vậy thì hơi kỳ, nên có người vận động Tổng thống cho ông Khôi được Bảo quốc huân chương. Dù là người thân cận tín nhiệm xin cho ông Khôi song Tổng thống vẫn gạt đi. Cuối cùng ông Khôi nghe lời bạn cứ ra tiệm mua đại một cái Bảo quốc huân chương đeo vào ngực cho có thể thống.

Ông Nhu thì coi thường giai cấp quan lại cũ, ông Tổng thống vẫn hoài nhớ dĩ vãng xa xưa cho nên ông mới tái lập Kim khánh bội tinh. Lập lại cả chức vụ Chánh phó Tổng tại địa phương. Ông lại hay quan niệm gọi cấp bậc của thuộc viên từ thời Pháp. Chẳng hạn ông Tá X. ông Tổng thống lại thường nói: “à ông Đội phẩm” (ông này vốn thuộc hàng xuất đội) ông Y, ông Tổng thống quen biết từ xưa nên lại thường gọi: ” à ông Huyện… “Không phải cứ quen thân ông bà Nhu là được Tổng thống Diệm tín nhiệm, nhiều khi lại ở thế kẹt. Ngô Đình Diệm là người nóng tính nhưng cả nể.

Cũng vì sự cả nể nên bao nhiêu tai tiếng về vụ Trần Văn Khiêm đến tai ông, ông đều bỏ qua, chỉ vì Khiêm là em ruột bà Nhu (sau đảo chính 1963 Khiêm bị khép tội mật vụ).

Lương Khải Minh xác nhận, Khiêm chả có chức vụ gì cả, không một ai giao cho anh ta công việc gì. Nhưng dựa vào thế của người chị, Khiêm đã ra ngoài lộng hành, nhân danh người này người kia. Khi vào dinh thì chạy lăng xăng. Nể bà Nhu nên không ai để ý. Có mấy khi Khiêm đượcgặp Tổng thống Diệm đâu. Có một lần sĩ quan tuỳ viên Lê Công Hoàn ghi nhận: Hôm ấy Khiêm được Tổng thống Diệm cho gọi vào. Khiêm tưởng Diệm ban phát chức vụ bổng lộc, nên mặt mũi quan trọng, hất hàm bảo Đại uý Lê Công Hoàn “Nè, ông Đại uý ông đưa tôi vào gặp Tổng thống”, ông Hoàn nhã nhặn: “Thưa ông, Tổng thống đang bận, xin ông chờ”. Nhưng Khiêm ra vẻ quan trọng. “Tôi cần vào gặp Tổng thống ngay”. Nói xong Khiêm kéo tay nhìn đồng hồ rồi tiếp: “10 giờ tôi có hẹn gấp Tôi không thể chờ được lâu”, Hoàn đáp thủng thẳng: ‘Được xin ông cử chờ”. Đáng lý ra Lê Công Hoàn đưa Khiêm vào gặp Diệm ngay sau đó nhưng “trả thù” cho bõ ghét, nên Hoàn cứ để cho Khiêm ngồi chờ đến 11 giờ trưa mới dẫn vào yết kiến ông Diệm. Sĩ quan tuỳ viên vừa khép cửa đã nghe thấy tiếng ông Diệm la mắng quát tháo Khiêm thật dữ dội. Một lát sau Khiêm đi ra mặt tái xám, tiu nghỉu, cắm đầu rảo bước.

Khiêm không có một chức vụ, một vai trò nào, ấy thế mà ở ngoài ai nghe thấy Khiêm cũng ngán. Khiêm chỉ là thứ cáo mượn oai hùm. Dưới chế độ Ngô Đình Diệm không thiếu những kẻ cáo mượn oai hùm như Khiêm.

Nhưng bọn họ có khả năng tạo nên sự nghẹt thở trong các khối quần chúng, reo rắc thêm hoang mang trong dân gian, đi đến đâu chúng cũng nhân danh ông này, ông nọ để lấy le và để lường gạt cũng có…

Bất cứ một chế độ nào muốn vững vàng, muốn dân chúng tín nhiệm thì phải sáng suốt trừ ngay những thành phần cáo mượn oai hùm, nhất là chúng con cáo đó lại là bà con anh em của người cầm quyền thì sự tác hại của nó đối với chế độ không phải là nhỏ.

Gần những năm cuối cùng của chế độ, gia đình Tổng thống Diệm cũng bắt đầu phân hoá và mâu thuẫn lớn dần trong mấy anh em. Ông Nhu càng ít gặp ông anh Tổng thống. Nhiều việc ông anh tự quyết định mà không cần hỏi “chú Nhu”.

Ngoài miền Trung, Cẩn bắt đầu uống rượu.Trước kia Cẩn chỉ nhấm nháp chút đỉnh rượu lễ. Từ năm 1961,1962 Cẩn đã uống cả ly lớn. Mỗi lần say ngất ngư, ông ta lại thét, chửi mắng. Cố vấn thì càng thêm say mê săn bắn. Đại uý Thạp, tuỳ viên của ông cho biết rằng, có khi ông Nhu nằm dưới hầm săn cọp hai đêm liền. Có khi phải theo ông ta đi bộ cả ngày trong rừng già Phan Rang. Đó cũng là dấu hiệu báo trước sự thay đổi lớn trong nội tâm của những cột trụ chế độ đang ở giai đoạn suy tàn.

Trong năm 1963, giới thân cận Ngô Đình Cẩn cho biết: ông Cẩn ức mà thổ huyết ít nhất cũng ba lần.

Một lần ngồi ăn cơm với các anh, không biết anh em “xào nấu” nhau ra sao (người ngoài không thể biết được) Cẩn mặt đỏ gay rồi thổ huyết ngay trong bữa ăn (nói nôm na là tức giận mà hộc máu).

Cố vấn Nhu cũng như Ngô Đình Diệm bắt đầu bị ám ảnh nặng nề bởi tổ chức CIA. ông Nhu vẫn cho rằng CIA thuộc loại”…”thứ đó hết xài nổi”. Dạo ấy muốn dèm pha ai, hại ai chỉ cần cấp báo với ông Nhu “người ấy hoạt động cho CIA”, đương sự kể như tan tành công danh, mất chức nghiệp.

Thế giới của anh em Ngô Đình Diệm bắt đầu xa cách nhau. Xin đưa ra một thí dụ đã nói lên sự xa cách đó. Tháng 10-1963, Tổng thống Diệm với sự góp ý của Nhu đã ra lệnh giải tán ngay Văn phòng Cố vấn chỉ đạo miền Trung của Ngô Đình Cẩn, Diệm cho rằng mọi công việc đều do toà Đại biểu Chính phủ giải quyết…Đại uý Nguyễn Văn Minh rời khỏi chức vụ Chánh văn phòng Cố vấn chỉ đạo miền Trung. Đại uý Minh qua lời giới thiệu của cha Bửu Đồng (khi ông Minh còn đóng ở đồn Cửa Tùng) đã trở thành nhân vật cốt cán của Cẩn từ tháng 5-1954. Trong 9 năm sống ở bên cạnh Ngô Đình Cẩn, hầu hết trong gia đình họ Ngô từ Tổng thống đến Đức Cha không còn xa lạ gì Đại uý Minh… Minh trở thành người trong gia đình và rất được tin cẩn.

Tháng 10- 1963, bỗng dưng Đại uý Minh bị gọi vào Sài Gòn qua thủ tục hành chánh. Một thủ tục chưa bao giờ áp dụng đối với người trong nhà.Bộ Nội vụ theo lệnh Tổng thống đánh công điện cho Toà Đại biểu chỉ thị cho Minh vào trình diện Tổng thống. Mà Cẩn không được hỏi ý kiến. Điều ấy làm Cẩn tức giận không ít.

Khi vào gặp Tổng thống Diệm, Tổng thống vẫn vui vẻ hỏi: “Tôi nghe nói ở ngoài đó anh liên lạc với người Mỹ nhiều lần hỉ? ” Đại uý Minh trình bày sự liên lạc của ông với Lãnh sự và Phó Lãnh sự Mỹ tại Huế. Đại cương ông Minh nói: “Con có gặp gỡ họ luôn. Đây là theo chỉ thị của ông Cậu ông Cậu bảo con nên tìm cách tiếp xúc người Mỹ và tìm hiểu xem thái độ của họ ra sao” – Tổng thống Diệm gật đầu không nói gì. Khi Đại uý Minh trở lại Huế vào gặp Cẩn và đưa cho ông ta xem sự vụ lệnh thuyên chuyển Minh lên trường Võ bị Đà Lạt thì vẻ mặt Cẩn lúc ấy đăm chiêu và lộ vẻ buồn rất sâu đậm. Ngô Đình Cẩn bảo Đại uý Mình: “Thôi thì anh cứ đi. ông Cụ làm thế này là ông Cụ đập vào mặt tôi”. Hôm ấy là ngày 28-10-1963. Đại uý Minh sau 9 năm phục vụ bên cạnh Ngô Đình Cẩn phải xếp hành trang rời bỏ cố đô Huế. Có điều đáng nhớ: Đại uý Minh sinh trưởng tại miền Bắc, khi trở thành Chánh văn phòng của Ngô Đình Cẩn mới trên 26 tuổi…Một số người vẫn cho rằng Cẩn không ưa người miền Bắc, nhưng trường hợp Đại uý Minh cũng như nhiều cộng sự viên thân cận của ông Cẩn gốc miền Bắc đã đủ nói lên đây chỉ là “dư luận”, có thể dư luận ấy xuất phát từ ngôn ngữ của Cẩn mỗi khi la hét những người gốc Bắc.

Đại loại sự xa cách trong gia đình họ Ngô là như vậy. Chỉ có thể nói là xa cách còn sự bất hoà không mấy ai biết được ngoại trừ người thân thiết của ba anh em ông.

Ông Tổng thống nóng nẩy chửi ai thì chửi thẳng vào mặt. ông Nhu không ưa ai nhưng vẫn cười nửa miệng, lạnh lùng khó hiểu. Ông Cẩn hay quát tháo, xử dụng ngôn ngữ bình dân với thái độ hách dịch kiểu Đổng lý thời xưa.

Uy quyền

Đáng lý ra, những tiểu tiết thuộc vấn đề nhân sự không nên trình bày, song có một điều: Chính những tiểu tiết vụn vặt nhiều khi lại làm hỏng đại sự. Ngô Đình Diệm có cái uy của người lãnh đạo tối thiểu, nhưng ông lại luôn luôn bị chi phối bởi những chi tiết vụn vặt do cá tính của ông cũng như sự dị biệt trong cá tính của anh em ông.Về Ngô Đình Nhu, ai cũng phải công nhận rằng ông ta rất giỏi, thông minh, am tường và thông suốt nhiều vấn đề, nhưng lại quá kiêu ngạo, tính tình lại lạnh lùng khép kín.

Tổng thống Diệm là một người giữ chữ Lễ, chữ Nghĩa theo tiết độ của nho gia đã trở thành cái khung chắc nịch nhốt ông vào trong đó. Do đó mà cái tôi tình cảm ( le moi sensible) của ông không thể hiện được ra ngoài để thâu phục nhân tâm và hỗ trợ cho cái uy sẵn có của ông. Sau 1963, phải nhìn nhận rằng, trong hàng lãnh đạo quốc gia tại miền Nam, chưa có một nhà lãnh đạo nào chứng tỏ có cái uy như ông. Đó là ưu điểm và là điều cần thiết số một của một ông Quốc trưởng. Không có uy thì quốc gia còn gì phép tắc, thể thống và uy quyền?

Những người thân cận đều xác nhận rằng: Phải sống lâu với Tổng thống mới nhận ra con người thực của ông. Con người ấy lại luôn luôn bị tình cảm chi phối, ông cả nể và cả nghe. Năm 1959 là năm ông đang say mê với công cuộc khẩn hoang và phát triển đồn điền. Cho nên nếu ai khéo nói, khéo trình bày hợp lý, là Tổng thống đều chấp thuận cho khai thác rừng để lập đồn điền. Tướng Xuân là một trong những người được ông cho phép khẩn hoang hàng trăm mẫu rừng tại Phước Long để trồng cao su. Có một báo cáo mật của địa phương cho rằng, ông Xuân chỉ giả vờ lấy cớ trồng cao su mà thực ra là để phá rừng lấy gỗ bán. Sau đó Ngô Đình Diệm có xem xét lại rồi gạt bản báo cáo đi, mắng một ông Bộ trưởng: “Bậy bạ. Người ta làm cho quốc gia mà mình cử phá”. ông Tổng thống tin mọi người cũng ngay thẳng như ông…Nên đã bao nhiêu giấy phép cho cúp rừng để lập đồn điền khai hoang nhưng “đồn điền” chỉ là cái cớ để loè Tổng thống mà thôi.

Định mệnh an bài

Khoảng năm 1956-1960 có tin đồn Đại tướng Thái Quang Hoàng sẽ thay Đại tướng Tỵ. Cũng như năm 1961, có tin tướng Khánh sẽ thay tướng Tỵ. Theo Lương Khải Minh, Đại tướng Tỵ là cánh tay mặt của Tổng thống Diệm. Nếu tướng Tỵ không đi Mỹ chữa bệnh thì chẳng bao giờ tướng Đôn trở thành quyền Tổng Tham mưu trưởng, như đã an bài, không ai lúc đó có thể ngờ rằng sự thay đổi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng lại trở thành một trong những yếu tố làm chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ.

Tổng thống Diệm được một bác sĩ Mỹ cho biết: Bệnh ung thư phổi của tướng Tỵ không thể nào chữa khỏi và chỉ còn chờ ngày chết. Những người thân xin để Đại tướng Tỵ qua Pháp điều trị, ông Tổng thống gạt đi và quyết định đưa Đại tướng qua Mỹ. Từ bao lâu rồi, ông Tổng thống yên trí chỉ có Mỹ mới giỏi về khoa học, Tổng thống muốn tự tay ông lo cho tướng Ty.

Trước ngày Đại tướng Ty lên đường sang Mỹ chữa bệnh, có đến cáo biệt Diệm. Hai người tâm sự một lúc lâu. Tổng thống hỏi: “Bà thân mẫu của Đại tướng còn không? ” Rồi Tổng thống tâm tình: “Tôi thì thân mẫu còn sống, thân mẫu tôi đã già rồi, tôi cũng phải cố giữ gìn thân thể để còn trả chữ hiếu cho mẹ”.

Tổng thống Diệm quý mến tướng Tỵ, trước hết vì tướng Tỵ thật thà lại hay hàn huyên tâm sự với Tổng thống. Tướng Tỵ có thể tiếp chuyện Tổng thống hàng nhiều giờ không phải là chuyện quốc sự hay quân cơ, mà thường là chuyện tình cảm. Tướng Tỵ là một trong mấy tướng chỉ xưng “tôi” mà không dùng tiếng “con” với Ngô Đình Diệm. Đại khái tướng Ty thường nói: “Thưa Tổng thống tôi… Tôi xin trình Tổng thống… Tôi xin thưa Tổng thống”. Tướng Tỵ ăn mặc rất chỉnh tề, đúng quân phong quân kỷ. Mỗi lần vào phòng Tổng thống tướng Tỵ đều chào theo đúng quy cách, đó là điều Tổng thống rất thích. Một ưu điểm khác nữa là tướng Ty không “xin xỏ” lôi thôi…không kéo phe kết đảng… ông nói năng dõng dạc, nhưng với Tổng thống lại tỏ ra rí rỏm, tâm tình tỏ ra tương đắc

Tổng thống Diệm tin cẩn tướng Tỵ từ năm 1954 trong vụ tướng Hinh. Lúc ấy tướng Tỵ đang làm Tư lệnh đệ nhất quân khu khi mà Tổng.thống Diệm không có hơn một đại đội phòng vệ dinh, thì chính tướng Tỵ đã âm thầm tìm mọi cách ủng hộ Ngô Đình Diệm. Tháng 9-1954, tướng Hinh dựa vào lực lượng quân đội viễn chinh Pháp quyết liệt hạ cho bằng được ông Diệm, thì tướng Tỵ bên ngoài vẫn giữ tư thế quân nhân thuần tuý, không đứng về phe tướng Hinh cũng không công khai ủng hộ Tổng thống Diệm, nhưng trong bóng tối ông đã có thái độ dứt khoát ủng hộ ông Diệm. Từ đó, ông Diệm cảm kích tấm lòng trung kiên của tướng Tỵ. Ông Nhu không ghét tướng Tỵ nhưng cũng không có nhiều thiện cảm đối với vị tướng xuất thân từ thế hệ lính Pháp. Giao lưu tình cảm và công việc giữa tướng Tỵ và ông Nhu gần như không có. Cả năm, tướng Tỵ mới gặp ông Nhu vài ba lần và mỗi lần đôi bên chỉ chào hỏi xã giao.Riêng tướng Tỵ, tỏ ra khâm phục ông Nhu và dành cho ông một sự kính trọng đặc biệt.

Sau vụ đảo chính hụt 2-2-1960, Tổng thống Diệm lại càng thương yêu tướng Tỵ và hai con người cùng lớp tuổi đã trở thành đôi bạn tri kỷ.Cũng sau cuộc đảo chính hụt ấy, một số nhân vật cao cấp có ý tìm cách để Tổng thống Diệm thay thế tướng Tỵ. Nhưng tướng lãnh lúc ấy xem ra cũng không còn ai hơn tướng Tỵ – người được điểm này lại mất điểm kia – ông Tỵ là loại “chung chung” tuy vậy ông cũng bị một số tướng tá trẻ gièm pha, nhất là một số tướng tá thuộc hàng con cưng của ông Cẩn.

Thời Đệ nhất Cộng hoà, uy quyền tập trung vào một ông Tổng thống, do đó chức Phó Tổng thống của ông Thơ vẫn ở tư thế một viên chức cao cấp hơn là một Phó Tổng thống. ông Thơ không có huy hiệu riêng – ngoại trừ những lần đại diện Tổng thống tham dự những buổi lễ lớn – Xe của Phó Tổng thống không có hiệu kỳ cũng không cắm quốc kỳ. ông đi làm bình thường như một công chức: ngồi cạnh tàixế và cũng không có xe Harley hộ tống.

Riêng Đại tướng Tỵ là người thứ hai của Đệ nhất Cộng hoà được chia sẻ quyền uy với Tổng thống. Mỗi lần ông vào dinh là một sự uy nghi…hơn cả ông Bộ trưởng Quốc phòng. Tư dinh của tướng Ty ở đường Cường Để, được xây dựng trên một ngọn đồi, chính là do chỉ thị đặc biệt của Tổng thống Diệm. Từ năm 1956, gần như không có một cuộc kinh lý nào của Tổng thống Diệm mà không có mặt Đại tướng Tỵ.

Khi biến cố Phật giáo bùng nổ thì Đại tướng Tỵ lâm trọng bệnh. Khi tiễn chân Đại tướng Tỵ, Tổng thống Diệm tặng cho ông một chuỗi hạt và nói “Đại tướng nhớ cầu nguyện cho tôi… Tôi cầu xin ơn trên phù hộ cho Đại tướng” – Tướng Tỵ là một thứ tín đồ công giáo trong tâm hồn – ông thuộc nhiều kinh Công giáo và có lòng sùng mộ Đức Mẹ rất đặc biệt. Mặc dầu gia đình tướng Tỵ là Phật giáo thuần thành. Tổng thống Diệm ngậm ngùi phàn nàn với Đại uý Bằng: ‘ Đại tướng khó qua khỏi… bệnh của Đại tướng không biết. sống chết thế nào, khó qua khỏi năm nay”. Tổng thống Diệm đỡ vai tướng Tỵ và đi cùng ông xuống đến tận thềm dinh Gia Long. Cánh cửa xe đóng lại, tướng Tỵ cúi đầu chào, Tổng thống vẫy tay với một vẻ ngậm ngùi.

Tổng thống Diệm chỉ định cho Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng phải tổ chức nghi lễ tiễn chân Đại tướng Tỵ một cách trọng thể đặc biệt. Ngày Đại tướng Tỵ ra phi trường Tân Sơn Nhất đáp máy bay đi Hoa Kỳ, ông đã được hưởng đầy đủ nghi lễ dành cho vị Thống soái. Cửa phòng khách danh dự (VIP) của phi trường được mở rộng…Đây là một vinh dự đặc biệt vì chỉ có Tổng thống mới đi qua cửa này…Trước năm 1963, phòng khách danh dự phi trường Tân Sơn Nhất được xem như là nơi tiêu biểu cho uy quyền và thể thống quốc gia. Dù là ông Ngô Đình Nhu, Đức cha Thục, Phó Tổng thống Thơ, Chủ tịch Quốc hội vẫn đi vào phi trường theo ngả thông thường. Năm 1961, vợ chồng ông Nhu công du qua Ma Rốc với tư cách đại diện chánh thức của Tổng thống Diệm thì lần ấy phòng khách danh dự mới mở cửa đón tiếp.

Tuy là Tổng Tham mưu trưởng nhưng Đại tướng Ty có uy thế rất nhiều so với Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, đó là một ưu đãi đặc biệt của Tổng thống Diệm đối với ông.

Tại Mỹ, khi nghe tin Tổng thống Diệm bị sát hại, Đại tướng Tỵ bàng hoàng rồi ôm mặt khóc. Sau này hồi hương, mỗi lần nghe ai nhắc đến Tổng thốngDiệm thì Đại tướng Tỵ lại than thở: “Hồi ông tiễn chân tôi qua Mỹ, ông Cụ tưởng tôi chết…Ai dè ông lại chết trước tôi”. Trước giờ phút lâm chung, tướng Tỵ vẫn giữ trong tay chuỗi hạt của Tổng thống Diệm, ông coi đó như là một kỷ vật thiêng liêng.

Mối tình bí mật của Tổng thống Ngô Đình Diệm

Có một sự thực đã như thứ hoả mù bao trùm miền Nam từ hơn chục năm qua: Đó là sự hiểu lầm, nghi quẩn lo quanh và dư luận.

Dư luận bao giờ cũng chỉ là dư luận. Thế nhưng dân chúng vốn dễ tin, dễ nghe cho nên dư luận về một người này hay một chuyện kia được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dư luận mặc nhiên trở thành sự thực. Hay ít ra cũng như thực. Rồi dân chúng sống trong sự thực đó mà phản kháng, mai mỉa hay bằng lòng với nó. Về sự hiểu lầm, nghĩ sai cũng thế, ngày này qua ngày khác, tích luỹ lại rồi bộc phát tuỳ theo hoàn cảnh mà trở nên ân oán nhau.

Những người trong Chính phủ “quốc gia” miền Nam, tuy đứng cùng trong một chiến tuyến, nhưng rồi vì ngộ nhận, vì chính kiến dị biệt, về đường lối và cách thể…trong hơn 10 năm qua, những con người “quốc gia” ấy đã quay lưng lại nhau “ra lườm vào nguýt và đánh đấm” nhau rất “chí tình”.

Nói về sự ngộ nhận thì có cả trăm hình thức ngộ nhận. Từ đó dân chúng sẵn sàng “thêu hoa dệt gấm” cho nhau bằng cả cái gia tài tiếu lâm vô hạn.Về Tổng thống Ngô Đình Diệm chẳng hạn. Trước đây có dư luận truyền trong dân chúng là ông Diệm bất lực. Do đó Tổng thống Diệm không lập gia đình và cứ đứng gần đàn bà thì ông ta hay thẹn thùng. Nhiều người, kể cả những người gần gũi Tổng thống nhất cũng như trong hàng ngũ đối lập,đều thắc mắc về tiểu tiết mà họ cho là hấp dẫn, ly kỳ cần phải tìm hiểu: “Tổng thống có như một người bình thường về cơ quan sinh dục không”? Cái quan hệ gấp trăm ngàn lần thì chả để ý, song cái “tiểu tiết” đó xem ra thiên hạ thắc mắc lắm. Rồi ngườí ta sáng tác ra nhiều giai thoại rất ly kỳ và rất phù hợp với bản chất ưa trào phúng và tiếu lâm của dân chúng. Ông Phạm Văn Nhu, nguyên Chủ tịch Quốc hội thời Tổng thống Diệm trong buổi trà đàm cho biết rằng, ông và Tổng thống Diệm thân nhau từ năm 11, 12 tuổi ở xứ Huế. Những năm thơ ấu đó trong lúc hai người sống rất tự nhiên theo sự tự nhiên của tuổi trẻ, Phạm Văn Nhu không thấy có gì khác lạ nơi con người NgôĐình Diệm, nghĩa là Tổng thống Diệm hoàn toàn bình thường về cơ thể như tất cả mọi người. Điều này thiết tưởng cũng nên tìm hiểu vì ai cũng hiểu rõ rằng, yếu tố sinh lý trong một con người đã rất quan hệ đến đời sống tâm lý con người đó.

Năm 1948, cựu Thượng thư Ngô Đình Diệm vào miền Nam, khi thì ở Vĩnh Long với anh là Ngô Đình Thục, khi thì lên Sài Gòn lưu ngụ tại khu Thánh đường Saint Pierre. Có một thời gian ông Diệm đã sống tại nhà Cha Tam ở Chợ Lớn.

Khu Thánh đường ấy, 15 năm sau (1948-1963) ông Diệm trở lại lần cuối cùng rồi vĩnh viễn ra đi về cõi thiên cổ. Ông Diệm thích tâm sự hàn huyên với cha Tam, nên dù di đâu xa, ông vẫn lưu nhớ. Khi ở Vĩnh Long về Sài Gòn ông Diệm thường đến làm việc, họp với nhóm Tinh thần và Hoa Lư tức là hai tờ báo hoạt động theo khuynh hướng xã hội Công giáo, trụ sở của nhóm Tinh thần và Hoa lư đặt một phòng trên tầng lầu hai của cư thất luật sư Lê Văn Kim (vị luật sư đậu nhiều bằng cấp khác nhau. Năm 1945 bị Nhật giết vì cho rằng luật sư Kim là gián điệp của quân đội Đồng minh). Ông Diệm hằng ngày đến trụ sở này để làm việc với một số cộng sự, trong số đó có Giáo sư Phạm Văn Nhu vừa từ Huế vào.

Giáo sư Nhu cho biết, anh em ông vẫn “tiếu lâm” với nhau sau những giờ làm việc mệt nhọc và cũng là cách để đỡ nhớ vợ con.

Nhưng mỗi khi ông “Thượng thư” đến thì anh em ông lại phải bắt tay vào làm việc hội họp. Ông Diệm không thích chuyện tếu.

Nhưng ông có thể ngồi nói chuyện liên miên hằng hai, ba giờ hết chuyện đất nước đến chuyện tây chuyện Mỹ, chuyện trên trời dưới biển.Những lúc tâm sự như thế, ông Diệm cười rất có duyên và yêu đời hơn cả những dân có “tình ái” yêu đời.

Năm 18, 19 tuổi, khi ông Diệm còn đang là sinh viên trường Hậu bổ, vào một buổi sáng mùa hè nọ, ông đang ngồi đọc sách trên lầu tại nhà chị gái tức bà Cả Lễ, thì ba bốn cô gái Huế đến chơi nhà bà Cả. Vốn là những tiểu thơ khuê các trong một thời mà làn sóng lãng mạn phương Tây đang đổ xô vào tâm hồn giới trẻ (tiểu thuyết Tố Tâm năm 1922 là một thí dụ).

Các nàng tiểu thơ kia đã tìm mọi cách chọc ghẹo, chài mồi cậu ấm Diệm, tuy lùn nhưng có bộ mặt điển trai. Vào một thời đại “phi cao đẳng bất thành phu phụ”, và ở giữa đất kinh thành của vua chúa quan quyền thì tất nhiên là cậu ấm Diệm trở thành đối tượng cho lòng say mê của biết bao nhiêu tiểu thơ. Nhưng hôm ấy, trước sự chài mồi,chọc ghẹo của các cô, cậu ấm Diệm bỗng nhiên nổi nóng, đứng trên lầu mà mắng các cô, những rằng “con gái gì mà hư thân trắc nết như rứa”.

Thêm vào đó, cậu ấm Diệm khi còn học ở trường Pellerin đã từng nuôi mộng đi tu để trở thành một sư huynh sau này. Từ buổi cậu bất thần nổi giận với mấy cô, cả vùng Phú Cam các cô rỉ tai nhau: “Cậu Diệm sợ đàn bà con gái”. Cũng từ đó khi trở thành Tri phủ Hoà Đa, Tuần vũ Phan Thiết, ông Diệm đã “ở vậy” dù có rất nhiều gia đình “đường quan vị vọng” đánh tiếng gả con gái cho.

Cho đến năm 1948, khi ông Diệm đã gần ngũ tuần, giới thân cận của ông không ai nghe thấy ông nói về chuyện đàn bà con gái.

Phần vì nể ông, cho nên trong những lần trò chuyện với ông cũng chẳng ai đề cập làm chi. Lại có một số người “đạo đức giả” mỗi khi gặp ông chỉ nói toàn chuyện đạo đức tu hành thánh hiền. Hoá cho nên trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, ông Diệm đã không có dịp nào sử dụng ngôn ngữ về thế giới đàn bà và tình ái. Rồi dần dần, mỗi khi nhắc đến ông Diệm, người thân và cộng sự của ông đã chỉ coi ông như một người đàn ông đứng riêng trong một thế giới không vướng mắc mùi ” tục luỵ”.

Bí mật của những điều thầm kín

Sau này khi ông Diệm chấp chính cho đến năm 1963, người ta lại càng hồ nghi, rồi trở nên tin tưởng ông “bất thường sinh lý”. Quanh cái tiểu tiết đáng tò mò này giới có ăn học lại thường đem ra phân giải theo sự ăn học. Giới bình dân thì lại rỉ tai nhau theo cái máu trào phúng của giới bình dân. Về điều gì chứ cái sự liệt của một người không đi tu dân Việt ta coi bộ không chịu và người đó bị coi là dân khó tính, dân không chịu chơi, dân mất thăng bằng và hay quan trọng hoá. Sau vụ 2-2-1960, một luật sư – người của chế độ cũ – lúc ấy đã phẩm bình trong hơi men chếnh choáng, đại ý rằng “ông Diệm thì liệt, ông Nhu thì coi bộ “lãnh cảm ” nên bà Nhu mới tha hồ không chế tung hoành, theo cái luật âm thịnh dương suy”.

Như trên đã viết, ông Diệm là một người bình thường trong phần “cơ cấu quan trọng của thân thể “, giáo sư Phạm Văn Nhu kể lại như sau:

Vào một buổi sáng đẹp trời, năm 1948, ông Diệm từ nhà thờ Cha Tam đến tìm ông Nhu ở trụ sở nhóm Hoa Lư Tinh thần (nhà luật sư Lê Văn Kim). Hôm ấy, ông Diệm vui tươi lắm, mất hẳn sự ưu tư khắc khổ. ông Nhu nghĩ trong bụng: Có lẽ,”Cụ Thượng thư” mới nhận được tin gì tốt lành đây ông Diệm bảo ông Phạm Văn Nhu: “Mọi công chuyện hãy xếp lại đó sáng nay bọn mình đi chơi sở thứ’. ông Nhu đi mượn một chiếc xe hơi Limousine của một vị tướng Cao Đài, rồi hai người “thả ga” lên dọc sở thú. Dọc đường ông Diệm đề nghị “Bọn mình ghé tiệm nào đấy uống ly café chơi”. Và đó cũng là một điều lạ khiến ông Nhu thắc mắc: “Hẳn ông ấy phải có một chuyện chi quan hệ lắm đây”… Sau tuần café sữa, hai người lên sở thú, đi một vòng thưởng ngoạn cỏ cây hoa lá chim muông. Nhưng xem chừng ông Diệm có điều gì “nao nức” khác hơn là chuyện đi chơi sở thú. Ở sở thú ra, ông Diệm có vẻ ngần ngại, đắn đo một lúc lâu rồi bảo ông Nhu: “ông cho tôi lên đường Pasteur nơi ngã tư Pasteur và đường Legland De Lahraye (tức Phan Thanh Giản hiện nay). Đến nơi, ông Diệm bảo ông Nhu khoá xe rồi đi theo ông..Hai người vào một căn nhà trên tầng lầu hai (một dãy nhà dài, gồm nhiều căn và hầu hết đều là nhà công chức người Pháp). ông Nhu chỉ hỏi: “ông vào nhà ai ở đây?”. ông Diệm vẻ mặt tươi hẳn lên và đáp: “Tôi vào đây thăm con mệ nó”. Lần đầu tiên ông Nhu nghe thấy ông Diệm nói đến “con mệ nó”, ông đi thăm “con mệ nó”. Trước khi vào nhà ông Diệm nói: “Con mệ nó hiền đức lắm” – ông Diệm gõ cửa, một người đàn ông trạc 50 tuổi ra mở cửa, vừa trông thấy ông Diệm, ông ta đã cúi đầu kính cẩn thưa: “Mời cụ lớn vào”. Ông Diệm hỏi ngay “Bà có nhà không “ Người đàn ông thưa: “Bẩm cụ lớn, bà con mới ra Nha Trang, mời cụ lớn vào nhà dùng nước đã ” – Vẫn theo lời giáo sư Phạm Văn Nhu, ông Diệm đang tươi vui bỗng nhăn mặt lại, không vui. ông nói trống không “lạ chi hè, đi Nha Trang mà không cho biết hỉ”. ông Diệm đứng bần thần một lúc rồi hỏi người dàn ông: “ông có biết bà ra Nha Trang ở nơi mô không, ông có địa chỉ không” Người đàn ông đáp là có biết. Ông Diệm bỗng vui hẳn lên rồi líu tíu quay sang phía ông Nhu: “ông có mang giấy bút, ông ghi lại cho tôi ngay”.

Ông Nhu thì nghĩ bụng hẳn ông Diệm hay lui tới căn nhà này luôn cho nên gia nhân mới thân mật, mời chào như vậy.

Căn nhà đó lần đầu tiên ông Phạm Văn Nhu đến thăm và ông cũng là người duy nhất được ông Diệm tin cẩn cho đi theo. Khi đã có địa chỉ trong tay rồi, ông Diệm rất mừng trở về và bảo ông Nhu phải sửa soạn hành lý đi ra Nha Trang ngay để thăm “cho biết”.

Dọc đường trở về nhà ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu là “con mệ nó” tuy lấy Tây, tuy là hạng đàn bà bị người khinh rẻ, nhưng lòng dạ tốt lắm và rất thương đồng bào. Nhờ “Con mệ nó” (ông Diệm nhắc đi nhắc lại nhiều lần) ông ñaõ cứu được nhiều người quốc gia1 bị mật thám bắt. ông Diệm cho biết thêm, chồng “con mệ nó ” là người Pháp tòng sự tại Sở Mật thám liên bang Bót Catinat (Surreté Fédérale) mỗi khi có bạn bè hay người quen thuộc phe quốc gia bị mật thám bắt ông Diệm lại nhờ “con mệ nó ” lập tức, chồng “con mệ nó”, can thiệp trả tự do ngay”.

Sau này cũng vì một vụ can thiệp như vậy do ông Diệm cậy nhờ qua trung gian là “con mệ nó” người chồng Pháp của bà ta bị thải hồi sau phải lên Đà Lạt làm cho một hãng sửa xe hơi. Rồi người chồng của bà ta bị chết trong một tai nạn máy bay trên không phận Sài Gòn.

Ngày hôm sau hai ông đã có mặt tại Nha Trang. ông Nhu đi kiếm địa chỉ trước, để về cấp báo cho ông Diệm “con mệ nó” của ông đang ở nơi mô. Khi gặp mặt bà ta, ông Nhu mới ngã ngửa người kinh ngạc. Người đàn bà này không ai khác hơn là cô gái Huế mới thuở nào hai người từng quen mặt biết tên và cô gái Huế xinh tươi thuở ấy cũng đã từng biết mặt, nghe tên “cậu ấm Diệm”.

Qua bao nhiêu năm xa cách, ông Nhu không hiểu từ một duyên cớ nào cô ta đã phải đem thân lưu lạc đến tận đất Sài Gòn và trở thành vợ một người da trắng. ông Nhu cho biết thêm: “Đây là người đàn bà thuộc loại sắc nước hương trời, ăn nói lại duyên dáng mặn mà”. ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu: “Tôi thương con mệ nó hiền đức, tuy lấy Tây mà nó vẫn còn tình, còn nghĩa với người đồng bào”.

Bà ta ra Nha Trang lần ấy để thăm xứ Thuỳ Dương lần cuồi cùng, trước khi sang Pháp sống lưu lạc nơi quê chồng. Một nhà thơ Pháp từng than thở cho nỗi đoạn trường ân ái “Mon coeeur à son secret, mon amour à son mystère…”2 Biết đâu ông Diệm đã chẳng từng nuôi cơn mộng sầu nhớ thiên thu của tình trường. Chỉ biết rằng, vẫn theo lời giáo sư Nhu từ đấy rồi…thôi, riêng ông không bao giờ còn nghe thấy ông Diệm nhắc lại,ba tiếng “con mệ nó” với bao nhiêu nao nức như lần đi thăm sở thú và đến Nha thành…

Một số người có khuynh hướng thần thánh hoá Ngô Đình Diệm (mà cựu bộ trưởng Trần Chánh Thành là một), nên đã dựng lên những câu chuyện đầy bí ẩn về đời riêng của ông ta.


  1. Chỉ người của Ngô Đình Diệm. 

  2. Trái tim tôi thuộc về điều bí mật của ông ta, tình yêu tôi thuộc về sự huyền bí của ông ta.